Lịch sử Huy chương Fields
Lịch sử huy chương Fields bắt đầu từ Đại hội toán học thế giới (Đại hội) năm 1924 tại Toronto.
Cho đến cuối thế kỷ 19, cộng đồng Toán học trên thế giới làm việc riêng rẽ, từng nhóm với nhau hoặc từng quốc gia với nhau, chưa có một cuộc đại hội nào ở quy mô toàn cầu. Lần đầu tiên, vào năm 1897, 208 nhà Toán học từ 16 nước khác nhau tụ họp tại Zrich, Thụy Sĩ. Đó là Đại hội các nhà Toán học lần thứ nhất (The International Congress of Mathematicians – ICM). Họ cũng thống nhất với nhau là Đại hội lần thứ hai diễn ra tại Paris (Pháp) vào năm 1900, và kể từ đó cứ 4 năm một lần Đại hội lại được tổ chức ở một địa điểm nào đó được thỏa thuận trước.
Theo quyết định của Đại hội lần thứ 6 năm 1920 họp tại Strasbourg (Pháp) thì Đại hội lần thứ 7 năm 1924 sẽ diễn ra tại Toronto (Canada). Một ủy ban chuẩn bị cho Đại hội được thành lập vào tháng 11 năm 1923, trụ sở đặt tại Đại Học Toronto, chủ tịch ủy ban do giáo sư John Charles Fields và thư ký là giáo sư John Synge, một đồng nghiệp của ông, đảm nhiệm.
Lịch sử huy chương Fields bắt đầu từ Đại hội toán học thế giới (Đại hội) năm 1924 tại Toronto. Trong khi tiến hành chuẩn bị Đại hội, Fields đã có ý định thiết lập một phần thưởng trao tặng cho một hoặc hai nhà Toán học xuất sắc nào đó, nhưng lúc đó ông chưa có điều kiện thực hiện. Cho tới cuộc họp ban trù bị năm 1931 chuẩn bị cho Đại Hội năm 1932 tổ chức lại Zrich – mà Fields tiếp tục là thành viên thì ông mới chính thức đưa ra ý kiến này. Trích báo cáo của ủy ban trù bị về ý kiến của Fields: “Sau Đại Hội 1924 đến nay, tổng kết số tiền còn lại là 2500 USD. Số tiền này sẽ được dành riêng để làm hai huy chương bằng vàng và phần thưởng trao tặng trong kỳ Đại Hội kế tiếp vào 1936. Một ủy ban do Đại Hội này bổ nhiệm sẽ chọn lựa ra người đoạt giải.” Fields cũng cho biết là các hội Toán học Pháp, Đức, Ý, Thụy Sĩ, và Mỹ hoàn toàn ủng hộ ý kiến này.
Trong biên bản Đại hội năm 1932 có ghi lại một số nguyên tắc chính cho giải thưởng do Fields đề nghị, trong đó có ý quan trọng sau đây: “Người được trao tặng huy chương không được quá 40 tuổi.” Bởi vì lý do mà ông đưa ra là: “Trong khi chúng ta công nhận công trình xuất sắc của người được giải, thì cùng một lúc chúng ta khuyến khích anh ấy và những người trẻ tuổi tiếp tục nỗ lực làm việc cho những thành tựu khác trong tương lai.” Ông cũng nói thêm: “Huy chương này có giá trị quốc tế, không gắn theo nó một ý nghĩa cá nhân hoặc một quốc gia dân tộc nào cả.”
Tiếc thay, Fields đã qua đời vào tháng 5 năm 1932 trước khi nhìn thấy ý định của mình được Đại hội nhóm họp vào tháng 8 năm ấy thông qua. Phần thưởng cao quý này có tên chính thức là Huy chương Quốc tế dành thưởng cho những khám phá xuất sắc của Toán học (International Medal for Outstanding Discoveries in Mathematics), nhưng để ghi nhớ công sức của Fields trong quá trình hình thành giải thưởng này nên giải thường được gọi tắt là Huy chương Fields.
Cuối Đại hội năm 1932, một ủy ban được thành lập, có nhiệm vụ tìm và chọn người sẽ được trao Huy chương Fields trong kỳ Đại Hội kế tiếp (sẽ tổ chức vào năm 1936 tại Oslo, Na-uy). Ủy ban này gồm các nhà Toán học tài giỏi và uy tín nhất thời ấy:
1. George David Birkhoff (1884 – 1944), người Mỹ.
2. Constantin Carathéodory (1873 – 1950), người Hy Lạp.
3. Élie Cartan (1869 – 1951), người Pháp.
4. Francesco Severi (1879 – 1961), người Ý.
5. Teiji Takagi (1875 – 1960), người Nhật.
Theo quy định, Huy chương Fields làm bằng vàng 14, có đường kính 63.5 mm. Huy chương được điêu khắc gia Robert Tait McKenzie người Canada thiết kế. Do giải thưởng có giá trị quốc tế nên các câu chữ ghi trên hai mặt huy chương được viết bằng tiếng La Tinh. Mặt trước có hình Archimedes (APXIMHOY) và có ghi:
Video đang HOT
Mặt trước của Huy chương
Mặt sau của Huy chương
TRANSIRE SVVM PECTVS MVNDOQVE POTIRI
(Vượt qua sự hiểu biết của anh và anh sẽ chế ngự được vũ trụ)
Mặt sau ghi:
CONGREGATI EX TOTO ORBE MATHEMATICI OB SCRITPTA INSIGNIA TRIBVERE
(Nhà Toán học được thế giới tặng thưởng huy chương này vì những công trình xuất sắc)
Chìm trong mặt sau là cành hoa nguyệt quế (tượng trưng cho vinh quang chiến thắng) và hình trụ ngoại tiếp hình cầu (hình ưa thích của Archimedes và được xem là biểu tượng của nhà Toán học này).
Giá thành của mỗi chiếc huy chương là 5.500 USD. Phần thưởng tiền mặt dành cho mỗi người là 15.000 USD. (Tính theo thời giá năm 2014)
John Charles Fields (1863 – 1932), nhà Toán học Canada, người sáng lập giải thưởng Fields.
Nhà toán học John Fields sinh ra ở thành phố Hamilton, Ontario, Canada, năm 1863. Cha của ông có một cửa hàng bán da thú ở đường King và gia đình ông sống ở gần đó (nay khu này là một phần thuộc Jackson Square và một phần khác thuộc khu vực khách sạn Ramanda). Sau khi tốt nghiệp Đại học Toronto năm 1884, ông chuyển đến học Cao học tại Đại hoc Johns Hopkins, một trường danh tiếng của Mỹ, trưởng khoa Toán thời ấy do J.J. Sylvester, một nhà Toán học nổi tiếng, đảm nhiệm.
Ông tốt nghiệp Ph.D. năm 1887 và ở lại giảng dạy tại đây trong 2 năm trước khi chuyển sang Đại học Allegheny, Pennsylvania. Không thỏa mãn với nền Toán học Bắc Mỹ thời ấy, năm 1891 ông sang sống và làm việc hơn 10 năm tại Châu Âu, chủ yếu là ở Gttingen và Paris. Ở đây ông chịu ảnh hưởng sâu đậm về phong cách làm việc và nghiên cứu của một số nhà Toán học Châu Âu thời ấy như Klein, Frobenius, Weierstrass,…Trong 10 năm này ông đã công bố nhiều bài báo trong lãnh vực hàm-đại số và kết bạn với nhà Toán học nổi tiếng người Thụy Điển Gosta Mittag-Leffler. Năm 1902, Fields trở về Canada, giảng dạy tại Đại học Toronto, và công tác ở đó cho đến hết đời. Ông được giải thưởng Hoàng gia Canada (Royal Society of Canada) năm 1909 và giải thưởng Hoàng gia Anh (Royal Society of London) năm 1913.
Fields hoạt động không mệt mỏi trong việc quảng bá Toán học. Ông vận động thành phố Toronto và chính quyền Canada tài trợ cho Quỹ nghiên cứu khoa học của Đại học Toronto. Số tiền hàng năm đem về cho trường khoảng 75.000 USD, một con số rất có ý nghĩa (so với lương của một giáo sư khi ấy là 1.000 USD/ năm). Ông cũng vận động thành lập được Hội đồng Quốc gia nghiên cứu khoa học kỹ thuật Canada. Ông giữ chức Chủ tịch Viện Nghiên cứu Hoàng gia Canada (Royal Canada Institute) từ năm 1919 đến năm 1925. Trong thời gian này, ông đã xây dựng cơ quan này trở thành một cơ quan quản lý nghiên cứu và phát triển Khoa học kỹ thuật. Nhiều nhà khoa học nổi tiếng thế giới được ông mời về đây thuyết trình những đề tài mới nhất, thúc đẩy sự phát triển khoa học cho đất nước ông.
Lê Quang Ánh
Theo khoahocphattrien.vn
Chủ nhân tấm huy chương Fields danh giá từng suýt theo ngành... văn học
Giáo sư Alessio Figalli, 34 tuổi, là 1 trong 4 nhà toán học vinh dự được trao huy chương Fields 2018 - giải thưởng vốn được coi như giải Nobel toán học. Con đường nghiên cứu toán học chuyên nghiệp đến với ông khá bất ngờ khi trước đó ông từng theo học chuyên ngành văn học.
Ông Figalli sinh năm 1984 tại Rome, Italia. Cha của ông là một giáo sư kỹ thuật, mẹ ông là một giáo viên trung học. Căn nhà của gia đình ông luôn tràn ngập các cuốn sách về lịch sử Hy Lạp và thần thoại.
Giáo sư Alessio Figalli, một trong 4 nhà toán học nhận giải thưởng Fields 2018. (Ảnh: Gian Marco Castelberg)
Khi còn nhỏ, cậu bé Figalli thích chơi bóng đá, xem hoạt hình và ra ngoài chơi cùng bạn bè. Cậu cũng luôn muốn làm bài về nhà trước để có thể dành toàn bộ thời gian còn lại chơi đùa. Với ông, đây là một môn học khá dễ, một bộ môn mà ông có thể dễ dàng dành điểm cao mà không cần phải tốn công khổ luyện.
Giáo sư Figalli khi còn nhỏ. (Ảnh nhân vật cung cấp)
Quả thực, phải mất một khoảng thời gian, môn toán mới chinh phục được Figalli và khiến ông đam mê theo đuổi. Tại Italia, học sinh có thể đăng ký học tại các trường trung học chuyên tự nhiên hoặc thiên về văn học. Mặc dù Figalli khá thích các môn khoa học, nhưng ông cũng sẵn sàng theo học văn học theo nguyện vọng của cha mẹ.
Lúc đó, cậu bé "láu cá" Figalli đã nghĩ như sau: "Sao lại không nhỉ? Thường thì sẽ có nhiều bạn nữ trong các trường chuyên văn hơn là trường khoa học, đó là điểm "được" đấy".
Chỉ đến khi học năm ba trung học, Figalli mới bắt đầu dành nhiều thời gian nghiên cứu toán học. Một đồng nghiệp của cha ông đã khuyến khích Figalli tham gia cuộc thi toán quốc tế Olympiad.
Cũng từ đây, Figalli nhận ra "có những vấn đề toán học mà việc tìm ra lời giải không hề dễ dàng, đòi hỏi phải tìm tòi sáng tạo" và bắt đầu có cảm giác "lĩnh ngộ" khi giải toán.
Con đường đến với sự nghiệp nghiên cứu toán học chuyên nghiệp của giáo sư Alessio Figalli hết sức tình cờ. (Ảnh: Quanta Magazine)
Sau đó, Figalli được nhận vào Đại học dành cho sinh viên chuyên toán và khoa học Scuola Normale Superiore of Pisa. Tuy nhiên, sinh viên Figalli không phải là một thành viên nổi bật trong lớp khi đang ngồi học cùng những sinh viên hàng đầu Italia mà thậm chí không biết làm toán đạo hàm.
"Cậu ấy tụt lại khá xa so với những bạn học được đào tạo chuyên sâu trước đó", Luigi Ambrosio, giáo viên của Figalli tại đại học nhớ lại.
Tuy nhiên, Figalli chỉ mất 1 năm để theo kịp các bạn cùng lớp và thậm chí còn bỏ xa họ khi tốt nghiệp đại học chỉ trong 2 năm. Ông lấy bằng Tiến sĩ năm 2007 chỉ sau 1 năm nghiên cứu.
Ông được phong Phó giáo sư tại đại học Texas (Mỹ) khi mới 25 tuổi và chính thức trở thành Giáo sư ở tuổi 27. Ông bắt đầu giảng dạy tại đại học ETH Zurich (Thụy Sĩ) từ năm 32 tuổi đến nay.
Ông đã nhận được rất nhiều giải thưởng và việc nhận được huy chương toán học thế giới Fields là một cột mốc mới trong sự nghiệp của ông.
Hiện tại, nhà toán học trẻ người Italia này có vẻ ngoài vô cùng "thư sinh": cao ráo, cân đối và phong cách. Từng là một học sinh chuyên ngành văn học, không có chút liên quan nào tới môn toán, ông đã trở thành người giải quyết nguyên lý toán phân tích "khó nhằn", liên quan tới tính chất của một số loại phương trình đặc biệt.
Những kết quả nghiên cứu của ông mang tính ứng dụng sâu rộng từ hình dạng của các tinh thể tới các loại hình thời tiết hay cách băng tan ra trong nước. Chính những nghiên cứu đột phá này đã giúp ông được trao huy chương toán học quốc tế Fields 2018.
Nhà toán học thuộc đại học Texas, Luis Caffarelli, đã giới thiệu giáo sư Figalli tại lễ trao huy chương Fields hôm 1/8: "Những đóng góp của ông là vô cùng sâu rộng trên nhiều lĩnh vực".
Phát biểu khi nhận được giải thưởng danh giá, giáo sư Figalli cho biết: "Tôi vô cùng vinh dự khi nhận được huy chương Fields. Huy chương là sự công nhận không chỉ những nghiên cứu của tôi mà còn là toàn ngành khoa học phân tích nói chung. Bản thân tôi luôn cảm thấy có động lực thôi thúc tham gia nhiều nghiên cứu chuyên sâu hơn".
Giáo sư tin rằng sự sáng tạo là yếu tố then chốt trong việc tìm ra những cách thức và kỹ thuật giải quyết những vấn đề toán học. Nguyện vọng của ông là truyền cảm hứng cho các học sinh của mình về bộ môn toán học thú vị và đầy tính sáng tạo.
Minh Hương
(Tổng hợp)
Theo Dân trí
Từ cậu bé đỗ đại học ở tuổi 13 tới thiên tài đoạt giải "Nobel Toán học" 2018 Giáo sư Akshay Venkatesh là nhà toán học người Australia thứ hai có vinh dự được trao huy chương Fields, được coi như giải Nobel toán học. Ông từng được nhận vào Đại học Western Australia năm 13 tuổi và là người trẻ nhất tốt nghiệp trong 16 năm qua tại ngôi trường này. Nhà toán học Akshay Venkatesh, 36 tuổi, chuyên ngành...