Lạm dụng kháng sinh làm suy yếu khả năng miễn dịch và tăng nguy cơ béo phì ở trẻ
Cha mẹ cần hết sức lưu ý trước khi cho trẻ nhỏ dùng kháng sinh. Thuốc kháng sinh cũng có thể tiêu diệt các vi khuẩn quan trọng đối với tiêu hóa, tăng trưởng và hệ miễn dịch của chúng ta.
Thuốc kháng sinh là loại thuốc được sử dụng để chống lại nhiễm trùng do vi khuẩn. Mặc dù những loại thuốc này có thể cứu sống người bệnh, nhưng lại cũng có thể gây ra những tác dụng phụ nghiêm trọng, đặc biệt là khi bị lạm dụng trong giai đoạn đầu đời.
Nguyên nhân là do thuốc kháng sinh không chỉ tiêu diệt vi khuẩn gây nhiễm trùng mà còn cả những vi khuẩn khác rất quan trọng đối với quá trình tiêu hóa, tăng trưởng và hệ miễn dịch. Tiếp xúc sớm với thuốc kháng sinh gây rối loạn hệ vi sinh vật đường ruột, vốn đóng vai trò quan trọng trong chức năng của hệ miễn dịch và ngăn ngừa các bệnh, chẳng hạn như béo phì và bệnh viêm ruột.
Tế bào T là một trong những tế bào bạch cầu quan trọng, đóng vai trò then chốt trong phản ứng miễn dịch thích ứng, giúp tiêu diệt các mầm bệnh cụ thể. Hệ vi sinh vật đường ruột tạo ra các axit béo chuỗi ngắn điều chỉnh các tế bào T.
Nhà nghiên cứu Martin Blaser tại Đại học Rutgers và nhóm của ông đã sử dụng mô hình chuột để xem mức độ ảnh hưởng của việc tiếp xúc với kháng sinh từ quá sớm đối với sự phát triển hệ miễn dịch của trẻ. Các nhà khoa học phát hiện ra rằng việc tiếp xúc với thuốc kháng sinh trong những tuần ngay trước và sau khi sinh, thời điểm mà cộng đồng vi sinh vật dễ bị gián đoạn, làm ảnh hưởng đến khả năng tạo ra một nhóm tế bào T CD41 trong ruột kết của trẻ, dẫn đến tổn thương lâu dài. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu chỉ quan sát thấy những tác động này trên ruột kết chứ không phải ở phổi, đường tiêu hóa trên hoặc lá lách.
Thuốc kháng sinh và nguy cơ béo phì ở trẻ
Một nghiên cứu năm 2018 đã kết luận, việc cho trẻ sơ sinh và trẻ mới biết đi dùng thuốc kháng sinh có thể làm tăng nguy cơ béo phì. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng trẻ em dùng kháng sinh trong hai năm đầu đời có nguy cơ béo phì cao hơn 26%. Trẻ sơ sinh được sử dụng thuốc kháng axit để giảm axit dạ dày hoặc điều trị trào ngược dạ dày cũng có nguy cơ béo phì tăng lên, mặc dù ở mức độ thấp hơn.
Theo các nhà nghiên cứu, thuốc kháng axit có thể làm thay đổi vi khuẩn bằng cách cho phép vi khuẩn từ miệng và mũi thường bị axit dạ dày tiêu diệt di chuyển vào ruột, cũng như tự tiêu diệt vi khuẩn. Bên cạnh đó, việc cho trẻ dùng thuốc kháng sinh và thuốc kháng axit có thể làm tăng nguy cơ dị ứng thực phẩm và các bệnh dị ứng khác như hen suyễn. Vì vậy, các bậc cha mẹ cần hết sức thận trọng trước khi cho con nhỏ uống thuốc kháng sinh.
Nhiều người có xu hướng sử dụng thuốc kháng sinh ngay cả khi không cần thiết, chẳng hạn như để điều trị cảm lạnh thông thường do virus hay những bệnh nhiễm trùng nhỏ mà cơ thể có thể tự chống lại. Sử dụng thuốc kháng sinh liều cao hơn và lâu hơn mức cần thiết có thể gây hại cho các vi khuẩn hữu ích trong cơ thể. Vì thế, các bác sĩ chỉ nên kê đơn thuốc kháng sinh cho trẻ sơ sinh khi thật cần thiết và cha mẹ cũng nên tránh cho trẻ uống thuốc kháng sinh (hoặc thuốc kháng axit) mà không có sự tham vấn với bác sĩ chuyên khoa./.
Mối tương hệ giữa bệnh ở hệ cơ xương khớp và da liễu
Viêm khớp vảy nến (VKVN) là tình trạng viêm khớp có liên quan với bệnh vảy nến.Tỷ lệ này chiếm 10-30% bệnh nhân bị vảy nến.
Do đó, nếu chỉ xem xét các bệnh vảy nến và viêm khớp ở góc độ đơn lẻ có thể dẫn đến chẩn đoán không chính xác, ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị cũng như khả năng hồi phục của người bệnh.
Video đang HOT
Dễ bỏ sót nếu không xem xét tổng thể
VKVN là bệnh lý viêm khớp mạn tính ở các khớp ngoại biên hoặc cột sống, có liên quan đến bệnh vảy nến. Đây là một bệnh tự miễn, trong đó hệ miễn dịch tạo ra các đáp ứng viêm, dẫn đến các triệu chứng như sưng, đau, cứng khớp và mệt mỏi.
Tại Việt Nam cũng như trên thế giới, tỷ lệ hiện mắc của VKVN chưa có thống kê chính xác, ước chừng khoảng 0.3-1% dân số và tần suất mắc mới của bệnh từ 3.4 - 8 trường hợp trên 100.000 người.
Bên cạnh đó, trong số những người bị vảy nến có khoảng 6 - 42% sẽ tiến triển sang VKVN. Bệnh có thể khởi phát ở bất kì tuổi nào, nhưng phổ biến ở độ tuổi từ 30-50 tuổi. Hầu hết người bệnh VKVN thường khởi phát khoảng 10-12 năm sau khi có tổn thương da. Tuy nhiên, VKVN cũng có thể khởi phát trước hoặc cùng lúc với vảy nến da.
Nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời, bệnh có thể diễn tiến nặng, dẫn đến tổn hại chức năng của các khớp, biến dạng khớp, tàn phế, giảm chức năng hoạt động hằng ngày.
Ngoài ra, bệnh có thể làm nặng hơn các bệnh lý kèm theo của người bệnh (nếu có) như tăng huyết áp, đái tháo đường, thiếu máu cơ tim, béo phì, viêm ruột... dẫn đến nhiều biến chứng, tăng tỷ lệ tử vong. Tiến triển của bệnh còn tác động lên tâm lý của người bệnh, gây lo âu, trầm cảm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống.
Điều trị sớm và tuân thủ điều trị
Hiện chưa xác định nguyên nhân dẫn đến bệnh VKVN. Một số nghiên cứu cho rằng, có thể do sự kết hợp giữa yếu tố di truyền, môi trường và yếu tố miễn dịch. Ngoài ra, bệnh có tính chất gia đình và có mối liên hệ với kháng nguyên HLA-B27 (thể cột sống) và các HLA-DR (thể nhiều khớp).
Các tác nhân nhiễm khuẩn và chấn thương cũng có thể là yếu tố khởi phát bệnh. VKVN có thể tiến triển chậm, với các triệu chứng nhẹ. Hoặc có thể tiến triển nhanh và nặng, tùy theo từng trường hợp.
Người bệnh VKVN thường gặp những triệu chứng: mệt mỏi, sưng, đau các gân, sưng ngón tay, ngón chân. Đôi khi có hình ảnh như khúc dồi, cứng khớp, sưng, đau một hoặc nhiều khớp, giới hạn vận động khớp, cứng khớp buổi sáng. Móng tay chân bị lõm, rỗ, tiêu chảy (viêm ruột), đỏ và đau mắt (viêm màng bồ đào).
Các triệu chứng này có thể giống với các bệnh khớp khác như viêm khớp dạng thấp, gout, các thể viêm khớp cột sống... nên rất dễ nhầm lẫn. Do đó, việc chẩn đoán VKVN chủ yếu dựa vào đánh giá của bác sĩ chuyên khoa và loại trừ các nguyên nhân khác.
Cần khai thác các thông tin liên quan đến tiền căn bệnh lý, đặc biệt là vảy nến. Thăm khám lâm sàng đánh giá viêm khớp, tổn thương móng và thực hiện một số cận lâm sàng như tổng phân tích tế bào máu, CRP, máu lắng, X-quang khớp, MRI khớp để chẩn đoán.
VKVN cần điều trị song song tổn thương da và khớp. Bên cạnh đó, cần kết hợp các biện pháp dùng thuốc và không dùng thuốc, như giáo dục người bệnh, vật lý trị liệu phục hồi vận động hoặc ngoại khoa để chỉnh sửa, thay khớp ở giai đoạn muộn. Tùy vào tình trạng của người bệnh, bác sỹ sẽ chỉ định sử dụng các biện pháp điều trị phù hợp.
Ở giai đoạn nhẹ, người bệnh thường được chỉ định sử dụng thuốc gồm NSAID hoặc DMARD cổ điển. Nhóm thuốc này giúp giảm triệu chứng và điều trị các tổn thương da và khớp. Trong một số trường hợp nếu người bệnh không đáp ứng với các thuốc nêu trên, bác sỹ có thể chỉ định người bệnh sử dụng thuốc sinh học trong việc điều trị VKVN giai đoạn nặng.
MỘT SỐ TRIỆU CHỨNG NHẮC NHỞ NGUY CƠ VKVN
Viêm khớp:
- Thể viêm ít khớp, thường là các khớp lớn.
- Thể viêm khớp ngoại biên đối xứng.
- Thể viêm khớp trục (cột sống và khớp cùng chậu).
- Thể viêm các khớp liên đốt xa.
- Thể viêm khớp ngoại biên biến dạng nặng.
Bệnh diễn tiến từng đợt, các dạng triệu chứng lâm sàng không cố định mà có thể xuất hiện các thể khác nhau hay trùng lặp trong các đợt.
- Biểu hiện cơ xương khớp khác: Viêm gân bám, viêm gân gót, dấu hiệu ngón tay hay ngón chân khúc dồi.
- Biểu hiện da:
Vảy nến thường (psoriasis vulgaris).
Vảy nến mủ (pustular psoriasis.)
Vảy nến dạng giọt, dạng mảng (guttate psoriasis.)
Đỏ da (erythema).
- Biểu hiện ngoài khớp khác: Viêm kết mạc, viêm màng bồ đào, bệnh van tim, tổn thương móng...
Lời khuyên của thầy thuốc
Để đạt hiệu quả trong điều trị VKVN, người bệnh cần tuân thủ điều trị, thường xuyên tái khám để theo dõi, đánh giá diễn tiến và điều chỉnh thuốc phù hợp trong từng giai đoạn bệnh.
Người bệnh không nên bỏ điều trị và tự ý điều trị các thuốc mà không được bác sỹ chuyên khoa khuyến cáo. Bên cạnh điều trị dùng thuốc và tuân thủ điều trị, người bệnh nên duy trì chế độ dinh dưỡng và luyện tập hợp lý.
Người bệnh VKVN nên ăn nhiều rau xanh, trái cây tươi. Các thực phẩm này có thể làm giảm viêm, giúp người bệnh duy trì cân nặng hợp lý, tránh thừa cân làm tăng áp lực lên khớp. Giảm đường và chất béo, vì các chất này làm tăng quá trình viêm, thay vào đó nên thực hiện chế độ ăn có chất béo lành mạnh như cá, hạt...
Về chế độ sinh hoạt, người bệnh nên tập thể dục đều đặn, vận động ít nhất 30 phút mỗi ngày giúp giúp các khớp được linh hoạt hơn và tăng sức cơ. Cần bỏ thói quen hút thuốc lá, hạn chế rượu bia và tác nhân gây áp lực, căng thẳng.
Trẻ béo phì nhưng vẫn thiếu chất Theo Viện Dinh dưỡng Quốc gia, trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc cải thiện tình trạng dinh dưỡng và nâng cao sức khỏe người dân. Tỷ lệ suy dinh dưỡng (SDD) trẻ em đã giảm đáng kể và bền vững, tình hình an ninh lương thực - thực phẩm và bữa ăn của người dân...