Không chấp nhận con bị rối loạn phát triển, ‘ép’ con dùng sừng tê giác
Tỉ lệ trẻ gặp rối loạn về phát triển như tự kỷ, tăng động giảm chú ý… tăng theo thời gian. Với trẻ này hoạt động can thiệp sớm rất quan trọng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của trẻ sau này.
Tuy nhiên, nhiều cha mẹ không chấp nhận sự thật đã đưa con đi hết thầy này đến thầy kia, thậm chí tìm tới cả hình thức mê tín dị đoan hay dùng những loại thuốc rất đắt tiền như sừng tê giác, sữa ngoại… Điều này đã dẫn tới việc kéo dài thời gian trẻ được can thiệp, ảnh hưởng đến quá trình phát triển kỹ năng, hòa nhập cộng đồng.
Tỷ lệ trẻ rối loạn phát triển tăng theo thời gian
Sáng nay, tại Hà Nội, Hội Tâm lý – Giáo dục Việt Nam đã tổ chức Hội thảo khoa học toàn quốc “Phát triển năng lực chuyên môn và đổi mới quản lý trong hoạt động can thiệp trẻ có rối loạn phát triển”. Hội thảo đã thu hút sự tham gia của nhiều chuyên gia, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, các trung tâm làm nhiệm vụ can thiệp trẻ có rối loạn phát triển…
Các bài tham luận đã tập trung xoay quanh các nội dung: Tăng cường nâng cao năng lực chuyên môn tạo dựng uy tín nghiệp vụ của các trung tâm làm nhiệm vụ can thiệp trẻ có rối loạn phát triển; Rối loạn phát triển và các biểu hiện của rối loạn phát triển; Các biện pháp, mô hình đánh giá, can thiệp sớm cho trẻ mắc rối loạn phát triển; Kỹ năng xây dựng kế hoạch can thiệp cho trẻ mắc rối loạn phát triển; Vai trò của gia đình trong việc hỗ trợ trẻ mắc rối loạn phát triển…
Các đại biểu tham dự tại hội nghị. Ảnh Phương Thuận
Phát biểu tại buổi hội thảo, GS.TS. Nguyễn Ngọc Phú, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Khoa học Tâm lý – Giáo dục Việt Nam cho biết, rối loạn phát triển còn được hiểu là Rối nhiễu tâm trí. Ở nước ta, nghiên cứu của Trần Tuấn và cộng sự năm 2003 trên đối tượng trẻ 8 tuổi đã cho một con số, có tới 20,2% trẻ ở lứa tuổi này mắc chứng rối nhiễu tâm trí. Tỉ lệ trẻ gặp rối loạn về phát triển như tự kỷ, tăng động giảm chú ý, chậm phát triển… tăng theo thời gian.
TS. Nguyễn Kim Quý, Văn phòng Tham vấn và Trị liệu tâm lý trẻ em Hội Khoa học Tâm lý- Giáo dục Việt Nam cho biết, điều khó khăn nhất chính là các bậc phụ huynh không chấp nhận, hoặc khó chấp nhận sự thật khi bác sĩ chẩn đoán con em có các dấu hiệu tự kỷ. Phần lớn phụ huynh rơi vào trạng thái lo âu, hoang mang tột độ, nóng vội, thất vọng…
Vì không chấp nhận sự thật đã có những trường hợp đưa con đi hết thầy này đến thầy kia, thậm chí tìm tới cả hình thức mê tín dị đoan hay dùng những loại thuốc rất đắt tiền như sừng tê giác, sữa ngoại… Điều này đã dẫn tới việc kéo dài thời gian trẻ được can thiệp, ảnh hưởng đến quá trình phát triển kỹ năng, hòa nhập cộng đồng.
Hiệu quả từ mô hình can thiệp chuyên biệt
Theo GS.TS. Nguyễn Ngọc Phú, hiện nhiều cơ sở thực hiện nhiệm vụ giáo dục can thiệp trẻ có rối loạn phát triển hoạt động. Trong đó có trung tâm đã và đang hoạt động rất có hiệu quả, được nhân dân tín nhiệm nhưng nhìn chung thường hoạt động độc lập, tách biệt, ít có điều kiện gặp gỡ trao đổi, chia sẻ các kinh nghiệm trong can thiệp hỗ trợ trẻ, trong bồi dưỡng các tri thức liên quan đến lĩnh vực hoạt động can thiệp.
“Trẻ tự kỷ với những nhu cầu rất đa dạng và nhất là những trẻ ở các khu vực còn khó khăn thường có xu hướng được phát hiện ở những độ tuổi muộn hơn hoặc bị phát hiện chưa đúng. Điều đó đòi hỏi việc nâng cao nhận thức của cha mẹ, cộng đồng và các liên đới khác cũng như chuẩn bị tốt hơn nguồn nhân lực có chuyên môn vững vàng, hiểu rõ các giá trị nhân văn trong trị liệu, can thiệp và giáo dục hoà nhập cho trẻ tự kỷ” – ông Phú cho hay.
Nhìn chung các mô hình can thiệp điều trị rối loạn phổ tự kỷ chưa có sự thống nhất và còn tiếp tục nghiên cứu. Tại các nước tiên tiến trên thế giới và Việt Nam, do chưa có chính sách tổng thể về trẻ rối loạn phổ tự kỷ mang tầm quốc gia nên các gia đình không biết đưa đến nơi nào can thiệp, hoặc đưa đến can thiệp tại các cơ sở chăm sóc tập trung. Tại các cơ sở này cũng không đồng nhất về cơ sở điều trị cũng như phương pháp can thiệp.
Theo các chuyên gia tại buổi hội thảo việc trẻ rối loạn phát triển được can thiệp sớm là rất quan trọng. Ảnh PT
Video đang HOT
Trong các tham luận của nhiều đại biểu đều cho rằng, cha mẹ cần hiểu, can thiệp trẻ tự kỷ là một quá trình lâu dài và trong quá trình đó vai trò của cha mẹ rất quan trọng. Bên cạnh đó, trẻ có thể cần được can thiệp trị liệu hằng ngày từ các nhà tâm lý trị liệu, giáo viên đặc biệt và tiếp cận với các phương pháp can thiệp, trị liệu là rất quan trọng.
Xu hướng hiện nay trên thế giới về thực hiện can thiệp và trị liệu cho trẻ tự kỷ là cần phải dựa vào các phương pháp can thiệp, trị liệu đã được kiểm chứng. Việc vận dụng các phương pháp can thiệp, trị liệu cũng cần phải dựa trên nhu cầu và năng lực của mỗi cá nhân trẻ tự kỷ. Nhiều phương pháp đã được thực chứng về hiệu quả can thiệp và điều trị một số triệu chứng tự kỷ căn bản như trẻ được dạy theo phương pháp Montessori .
Hay các phương pháp tập trung vào sự phát triển cá nhân, mối quan hệ, cảm xúc như RDI, Floortime… Dựa trên điểm mạnh của tự kỷ là tư duy về hình ảnh, các phương pháp sử dụng tranh (ví dụ PECs) giúp trẻ giao tiếp dễ hơn. Tranh ảnh cũng được sử dụng thường xuyên trong hầu hết các phương pháp can thiệp tự kỷ.
Bà Đoàn Thị Thu (Trung tâm Giáo dục kỹ năng cho trẻ có nhu cầu đặc biệt Akari) cho rằng, thông qua quá trình thực nghiệm bằng phương pháp giáo dục Montessori, không những khả năng chú ý của trẻ RLPTK được nâng lên mà trẻ còn phát huy được tính sáng tạo, khả năng làm việc độc lập, tăng cường khả năng nhận thức về thế giới xung quanh thông qua việc rèn luyện các giác quan mà trẻ còn biết cách điều tiết cảm xúc của mình hơn, bình tĩnh hơn…
Theo khảo sát của Trung tâm, trước khi thực nghiệm tỉ lệ % cao nhất về mức độ khả năng chú ý chỉ dừng ở mức độ khá chiếm 42.9% số trẻ, có 42.9% trẻ có khả năng chú ý ở mức độ trung bình và 14.2% trẻ có mức độ chú ý yếu. Sau khi thực nghiệm bằng cách sử dụng phương pháp Montessori, khả năng chú ý của trẻ có sự chuyển biến hơn một cách rõ rệt, có 28.6% số trẻ có chú ý mức độ tốt, 28.5% trẻ có mức độ chú ý chuyển từ yếu sang trung bình, không có trẻ nào có mức độ chú ý yếu.
Sự phát triển chú ý của trẻ rối loạn phổ tự kỷ (RLPTK) về cơ bản đều có những giai đoạn phát triển giống như trẻ bình thường nhưng trẻ RLPTK có những khó khăn nhất định nên sự phát triển chú ý của chúng thường diễn ra chậm hơn so với trẻ bình thường. Do đó trong quá trình giáo dục, đòi hỏi các giáo viên, trung tâm cần luôn thay đổi các hình thức hoạt động và sử dụng các phương pháp, biện pháp khác nhau để duy trì sự chú ý có chủ đích của trẻ.
Phương Thuận
Theo giadinh.net.vn
Cần một cơ chế để "tài nguyên giáo dục mở" lấp đi sự nghèo nàn về tri thức của người lớn
Tài nguyên giáo dục mở chính là nguồn lực lấp đi sự nghèo nàn về tri thức. Tài nguyên này được chuyển tải trên mạng thông tin, phân phối đến từng người dùng, không có trở ngại về địa lý và hàng loạt rào cản khác sẽ nhanh chóng lấp đi các cái hố ngăn cách tri thức với người có nhu cầu về tri thức.
Ngày 4/6/2019 tại Trường đại học Mở Hà Nội, hội thảo khoa học " Trường Đại học với việc xây dựng tài nguyên giáo dục mở, đáp ứng yêu cầu học tập suốt đời của người lớn" đã thu hút 100 các nhà quản lý, nhà khoa học, giảng viên, doanh nghiệp của khu vực phía Bắc tham dự.
Hội thảo do Hội khuyến học Việt Nam phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức.
Theo Ban tổ chức, Hội thảo nhằm mục đích trao đổi về các điều kiện cần có để xây dựng nền giáo dục mở và xây dựng tài nguyên giáo dục mở ở các trường đại học theo tinh thần Nghị quyết 29-NQ/TW.
Những khó khăn, vướng mắc hiện đang tồn tại ảnh hưởng đến việc xây dựng tài nguyên giáo dục mở ở các trường đại học và giải pháp tháo gỡ các rào cản; Trách nhiệm của các cơ quan quản lý giáo dục và trường đại học trong việc xây dựng tài nguyên giáo dục mở phục vụ học tập suốt đời của người lớn; Đề xuất, kiến nghị về cơ chế, chính sách thúc đẩy sự phối hợp xây dựng và khai thác tài nguyên giáo dục mở giữa các trường đại học và các cơ sở giáo dục cộng đồng.
GS.TS Nguyễn Thị Doan, Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam phát biểu tại hội thảo
Lao động chất lượng tốt phải do chính các trường đại học cung cấp
Tại hội thảo, GS.TS Nguyễn Thị Doan, Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam cho biết, năng suất lao động của Việt Nam đang ở nhóm thấp và đang đứng trước nguy cơ bị bỏ lại phía sau xa hơn trong cuộc đua phát triển kinh tế so với các nước trên thế giới.
Ví dụ, năm 2017, năng suất lao động của 15 người Việt Nam bằng năng suất lao động của một người Singapore thì đến năm 2018 con số này đã nâng lên 23 -1.
Nhận biết được xu thế phát triển đất nước phải dựa vào tri thức nên trong các Nghị quyết Đại hội, đặc biệt là từ khóa 9 trở lại đây, Đảng ta đều xác định phát triển kinh tế đều phải dựa vào phát triển kinh tế tri thức, phát triển xanh.
"Một quốc gia muốn phát triển và tăng trưởng bền vững thì nhất quyết phải có 2 yếu tố: Một hệ thống đại học hoàn chỉnh, đẳng cấp quốc tế và một lực lượng lao động chất lượng tốt mà lực lượng lao động này chủ yếu lại do chính các trường đại học cung cấp. Như vậy, vai trò của các trường đại học rất lớn, có thể nói là yếu tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia" - GS Doan nhấn mạnh.
GS Doan cho rằng, Nghị quyết 29 Trung ương khóa 12 chỉ rõ bảy vấn đề trong quan điểm chỉ đạo về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo theo hướng mở, thực học, thực nghiệp, liên thông, chuyển mạnh từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, chuyển từ đào tạo theo số lượng sang chất lượng, thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục đào tạo.
Đặc biệt, trong các giải pháp nhằm thực hiện Nghị quyết 29 thì giải pháp thứ 4 là phải hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập.
Do vậy, trước yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0, giáo dục - đào tạo phải đổi mới toàn diện, triệt để, đồng bộ theo hướng giáo dục mở để khắc phục các khiếm khuyết hiện nay theo Nghị quyết 29-NQ/TW.
Theo đó, các trường cần đào tạo theo hướng linh hoạt, năng động, trường phải có mối quan hệ chặt chẽ với môi trường bên ngoài; tăng cơ hội tiếp cận tri thức cho tất cả mọi người ở mọi nơi, mọi lúc.
Các đại biểu tham dự hội thảo
Rất nhiều người học bị "cách ly" tri thức đại học
Tại hội thảo, các đại biểu thừa nhận rằng, người lao động nói chung ở nước ta còn nghèo nàn về tri thức, những tri thức hiện có không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, đẩy mạnh sản xuất, không đủ sức để tiếp cận cách mạng công nghiệp 4.0.
Nguyên nhân của sự nghèo nàn về tri thức và sự thiếu hụt năng lực thu lượm tri thức chủ yếu ở nền giáo dục khép kín, không mở ra những con đường thu gọn, tích tụ tri thức và những cơ chế chia sẻ tri thức, sự bình đẳng về cơ hội tiếp thu và giao lưu tri thức.
Hiện tượng này làm xuất hiện những "khoảng cách tri thức" giữa các cộng đồng dân cư, giữa các vùng kinh tế.
Tài nguyên giáo dục mở chính là nguồn lực lấp đi sự nghèo nàn về tri thức. Tài nguyên này được chuyển tải trên mạng thông tin, phân phối đến từng người dùng, không có trở ngại về địa lý và hàng loạt rào cản khác sẽ nhanh chóng lấp đi các cái hố ngăn cách tri thức với người có nhu cầu về tri thức.
Trên thực tế, những tri thức trong các chương trình giáo dục người lớn thường chỉ chú ý đến những đối tượng là nông dân, dân nghèo nông thôn và thành thị cùng những người làm nghề tự do.
Vì thế, những tri thức thường dừng lại ở mức độ phổ thông, không ứng dụng có hiệu quả cao đối với công việc sản xuất hàng ngày, đối với những việc làm đòi hỏi tính sáng tạo, tính độc đáo.
Rất nhiều người học bị "cách ly" tri thức đại học. Các trường đại học tạo ra tài nguyên giáo dục mở sẽ giúp cho hàng triệu cán bộ, công chức, viên chức, giáo viên, bác sĩ, nhà kinh doanh ... có thêm học vấn để không bị cách ly hiện đại hóa.
Cần một cơ chế để khai thác "tài nguyên giáo dục mở" ở các trường đại học
Theo các đại biểu, việc xây dựng tài nguyên giáo dục mở để phục vụ cho người lớn có đầy đủ tư liệu học tập suốt đời phải nhằm vào 2 vấn đề lớn:
Thứ nhất, có kho tư liệu giáo dục càng lớn càng tốt dưới hình thức đầu tư phần mềm cho giáo dục thường xuyên, đồng thời phát huy tinh thần hiếu học của người học và tạo cho họ năng lực tự học với cách học hiện đại (phi truyền thống), sử dụng các công nghệ học tập để truy cập, tiếp cận, sử dụng, phổ biến, chia sẻ tri thức.
Thứ hai, có tài nguyên giáo dục mở cho người lớn, nhưng cần kèm theo đó là một cơ chế chia sẻ tri thức từ tài nguyên giáo dục mở thì giá trị sử dụng và hiệu quả sử dụng các tri thức sẽ được nhân lên gấp bội.
Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Hữu Độ: "Sẽ đẩy mạnh hơn nữa xây dựng nguồn tài nguyên giáo dục mở thời gian tới".
Về một số vấn đề còn vướng mắc trong việc khai thác tài nguyên giáo dục mở hiện nay, GS.TS Nguyễn Thị Doan cho rằng, Nghị quyết 29-NQ/TW chưa nêu cụ thể lộ trình, kế hoạch, yêu cầu, giải pháp để thực hiện việc chuyển mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở, xây dựng xã hội học tập và thực hiện các mục tiêu đề ra.
Bên cạnh đó, Bộ GD-ĐT chưa có chỉ đạo cụ thể nào để các trường đại học phải chuyển từ đào tạo khép kín sang hệ thống giáo dục mở và xây dựng tài nguyên giáo dục mở phục vụ cho việc học tập suốt đời của người lao động. Chính vì vậy, "công nghệ đào tạo hàn lâm" vẫn còn diễn ra. Mới đây, tuy đã đẩy mạnh chế độ tự chủ của các trường song trong triển khai còn nhiều lúng túng...
Tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Hữu Độ cho biết, sẽ đẩy mạnh hơn nữa xây dựng nguồn tài nguyên giáo dục mở thời gian tới. Những ý kiến đóng góp quý báu tại Hội thảo sẽ giúp thúc đẩy việc xây dựng chính sách, sự quan tâm đầu tư đúng mức về mặt tài chính và thu hút sự tham gia của các chuyên gia hàng đầu vào công cuộc xây dựng một nguồn tài nguyên giáo dục mở đa dạng và có chất lượng cho Việt Nam.
Sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm, tài nguyên, công nghệ với các cơ sở đào tạo trên toàn quốc
TS Trương Tiến Tùng, Hiệu trưởng trường ĐH Mở Hà Nội
Với 25 năm kinh nghiệm tiên phong trong giáo dục mở và xây dựng tài nguyên giáo dục mở, TS Trương Tiến Tùng, Hiệu trưởng trường ĐH Mở Hà Nội cho biết, trong mô hình đào tạo từ xa của trường, người học được tiếp cận kiến thức, ngành học theo nhu cầu của cá nhân. Ai muốn học ngành học nào, môn học nào trong chương trình đào tạo của Nhà trường cũng được đáp ứng, miễn là đạt được điều kiện tiên quyết để vào học.
Người học được hỗ trợ hiệu quả bởi bộ phận cố vấn học tập và đặc biệt được cung cấp miễn phí hệ thống học liệu điện tử tương tác, xây dựng theo hướng mở với sự đóng góp trí tuệ của hơn 1000 giáo sư, giảng viên đến từ các trường đại học, học viện, viện nghiên cứu lớn trong cả nước.
Ông Tùng cho hay, năm 2019, có gần 15.000 sinh viên đang theo học hệ đào tạo trực tuyến tại trường. Trường Đại học Mở Hà Nội sẽ tích cực trong việc xây dựng hệ sinh thái giáo dục mở và sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm, tài nguyên, công nghệ với các cơ sở đào tạo trên toàn quốc.
Hồng Hạnh
Theo Dân trí
Trường sư phạm cùng giáo viên phổ thông bàn cách thức bồi dưỡng GV đáp ứng CTGDPT mới Sáng nay (21/4), Trường ĐH Sư phạm - ĐH Thái Nguyên phối hợp với Sở GD&ĐT Thái Nguyên tổ chức hội thảo khoa học Chương trình GDPT mới và định hướng chương trình bồi dưỡng giáo viên. Quang cảnh Hội thảo. Ảnh Việt Hà Dự hội thảo có bà Trịnh Hoài Thu - Phó Vụ trưởng Vụ GD Tiểu học (Bộ GD&ĐT); PGS.TS...