Khám phá giáo dục đại học ở Ba Lan
Hệ thống giáo dục đại học hiện đại của Ba Lan sử dụng ba giai đoạn cấp bằng tiêu chuẩn: Cử nhân , thạc sĩ và tiến sĩ.
Sinh viên không thuộc Liên minh châu Âu có thể tìm kiếm việc làm và có thể xin giấy phép lao động khi họ được mời làm việc. Ảnh: SWPS
Ngoài ra, tất cả các tổ chức giáo dục đại học ở Ba Lan đều sử dụng Hệ thống Chuyển đổi Tín chỉ châu Âu (ECTS).
Tại sao Ba Lan thu hút du học sinh quốc tế?
Các tổ chức giáo dục đại học ở Ba Lan cung cấp hơn 200 chương trình cấp bằng thạc sĩ bằng tiếng Anh. Các chương trình có sẵn trong một loạt các ngành học, bao gồm khoa học nông nghiệp , nghệ thuật, kỹ thuật, kinh doanh, ngôn ngữ, khoa học tự nhiên và khoa học xã hội . Các ngành phổ biến nhất là kỹ thuật (gần 70 chương trình) và kinh doanh (gần 50 chương trình). Một số chương trình cũng có sẵn bằng tiếng Đức. Các cơ sở giáo dục của Ba Lan được đánh giá cao trên toàn thế giới về cả giáo dục và nghiên cứu.
Ba Lan có khoảng 500 trường đại học và các tổ chức giáo dục đại học khác. Khoảng 1/3 số viện giáo dục đại học là công lập và 2/3 còn lại là tư nhân. Ba Lan chào đón sinh viên quốc tế và đã tăng đáng kể số lượng sinh viên nước ngoài trong những năm gần đây. Trong năm 2012, quốc gia này đã đón hơn 24.000 sinh viên quốc tế đến từ 141 quốc gia, trong đó số lượng lớn nhất đến từ Ukraine, Belarus, Na Uy và Mỹ. Hầu hết, sinh viên nước ngoài ở Ba Lan học kinh tế, kinh doanh, y học và công nghệ. Các cơ sở giáo dục đại học ở Ba Lan có xu hướng chuyên môn hóa và được chia thành nhiều loại khác nhau, bao gồm: Đại học, đại học kỹ thuật, học viện nông nghiệp, học viện kinh tế…
Học phí và thời lượng chương trình
Sinh viên Ba Lan theo học các chương trình toàn thời gian được miễn phí học phí tại các cơ sở giáo dục của bang. Một số sinh viên nước ngoài cũng có thể học miễn phí; tuy nhiên, tất cả những người khác phải trả học phí 2.000 euro mỗi năm cho các chương trình thạc sĩ. Các chương trình thạc sĩ thường kéo dài trong 1,5 – 2 năm. Tuy nhiên, bằng thạc sĩ có thể yêu cầu 2,5 năm học ngoài bằng cử nhân . Ngoài các khóa học, sinh viên ở hầu hết các ngành phải hoàn thành luận án hoặc dự án và bảo vệ nó trước khi nhận bằng thạc sĩ. Một năm học có hai học kỳ, mỗi học kỳ kết thúc bằng một kỳ kiểm tra. Học kỳ mùa thu kéo dài từ tháng 10 đến giữa tháng 2 và học kỳ mùa xuân kéo dài từ giữa tháng 2 – 6.
Cơ hội sau đại học
Công dân EU có thể làm việc cho bất kỳ công ty nào ở Ba Lan sau khi tốt nghiệp mà không cần giấy phép lao động. Sinh viên không thuộc Liên minh châu Âu có thể tìm kiếm việc làm và có thể xin giấy phép lao động khi họ được mời làm việc. Ba hạng mục việc làm không yêu cầu giấy phép lao động: Giáo viên đại học, giám đốc điều hành của một đơn vị Ba Lan thuộc một công ty đa quốc gia và phóng viên báo chí. Sinh viên tốt nghiệp các chương trình thạc sĩ ở Ba Lan cũng có thể tiếp tục theo học các chương trình tiến sĩ và nghiên cứu nếu họ được nhận vào một chương trình học.
Yêu cầu về visa
Sinh viên đến từ các nước thành viên EU/EEA không yêu cầu thị thực, nhưng họ cần giấy phép cư trú tạm thời. Sinh viên không thuộc EU/EEA phải có thị thực sinh viên, có thể được cấp từ Đại sứ quán hoặc Lãnh sự quán Ba Lan tại nước sở tại.
Thị thực này chỉ có hiệu lực trong ba tháng, vì vậy sinh viên yêu cầu ở lại lâu hơn phải xin giấy phép cư trú bao gồm cả thời gian học của họ. Sinh viên nên liên hệ với Văn phòng Quan hệ Quốc tế tại trường đại học của họ để được hỗ trợ xin giấy phép cư trú.
Bảo hiểm y tế
Tất cả sinh viên phải có bảo hiểm y tế. Sinh viên EU có thể sử dụng Thẻ Bảo hiểm Y tế châu Âu của mình để nhận các dịch vụ y tế. Ba Lan cũng có các thỏa thuận song phương với Vương quốc Anh, Thụy Điển và Slovakia, cho phép những công dân này được chăm sóc y tế miễn phí. Sinh viên đến từ các quốc gia không thuộc EU/EEA nên mua bảo hiểm y tế tại quốc gia của họ hoặc ngay sau khi đến Ba Lan. Nếu sinh viên không có bảo hiểm y tế, họ sẽ phải trả tiền cho các dịch vụ y tế.
Ngôn ngữ và chi phí sinh hoạt
Ba Lan rất tự hào về ngôn ngữ riêng của họ. Có rất nhiều chương trình để học tiếng Ba Lan. Những sinh viên chưa thành thạo tiếng Ba Lan nên xem xét việc bổ sung chương trình học của họ với việc giảng dạy ngôn ngữ, đặc biệt nếu họ đang xem xét cơ hội việc làm ở Ba Lan sau khi tốt nghiệp. Nhiều khóa học ở Ba Lan nhắm vào người mới bắt đầu và được giảng dạy trong những tháng hè hoặc trực tuyến. Các lớp chuyên biệt tập trung vào tiếng Ba Lan cho doanh nghiệp cũng có sẵn.
Chi phí sinh hoạt ở Ba Lan tương đối dễ chịu, khoảng 1.200 – 2.500 PLN (khoảng 300 – 600 euro) mỗi tháng, chưa bao gồm học phí. Ký túc xá sinh viên có giá khoảng 400 – 600 PLN và các căn hộ chung có giá 1.000 – 1.600 PLN mỗi tháng.
Các viện giáo dục đại học ở Ba Lan được chia thành loại hình trường đại học và loại trường không thuộc trường đại học. Các khóa học kiểu đại học ở cấp độ thạc sĩ thiên về lý thuyết hơn và sinh viên tốt nghiệp được cấp “bằng tốt nghiệp hoàn thành các nghiên cứu đồng nhất ở cấp độ thạc sĩ”. Các khóa học không thuộc loại trường đại học được coi là các khóa học “bổ sung” có tính ứng dụng thực tế hơn và sinh viên tốt nghiệp nhận được “bằng tốt nghiệp hoàn thành các nghiên cứu bổ sung cấp đại học”.
'Tự chủ đại học không có nghĩa là tăng học phí, đổ hết lên đầu sinh viên'
Chuyên gia cho rằng, khi thực hiện tự chủ đại học, mức học phí có thể tăng nhưng không có nghĩa đổ hết lên đầu sinh viên, cần có thêm nguồn xã hội hoá.
Ý kiến trên được đưa ra tại buổi toạ đàm "Tự chủ đại học ở Việt Nam không thể nửa vời" do VOV2 tổ chức mới đây. TS Mai Văn Tỉnh, Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng thẳng thắn, việc đổi mới tự chủ đại học ở Việt Nam đang yếu và thiếu 3 ở ba vấn đề: Lý luận, khái niệm về quản lý giáo dục đại học và tự chủ đại học chưa thật đúng; chưa có canh tân về công nghệ; đổi mới quan hệ xã hội.
Trong tự chủ, học phí của người học phải dựa trên nguyên tắc tính đúng, tính đủ, nhưng không có nghĩa tất cả đổ lên đầu sinh viên, mà cần các nguồn xã hội hoá khác cùng chung tay và có trách nhiệm với nhân lực tương lai.
Tại buổi tọa đàm, Thứ trưởng GD&ĐT Hoàng Minh Sơn cho rằng, tự chủ đại học bao gồm tự chủ về chuyên môn - nhân sự - tài chính. Tuy nhiên, tự chủ tài chính không có nghĩa các trường đều phải tự lo về tài chính. Bởi các trường đại học được coi là dịch vụ công đặc biệt, cần có sự chia sẻ giữa các bên liên quan nhà nước - người học - xã hội.
"Nhà nước cần có trách nhiệm đầu tư kinh phí cho các trường và người học cũng cần đóng góp học phí phù hợp với lợi ích các em nhận được. Đó có thể coi như khoản đầu tư cho tương lai. Chứ không phải tự chủ là các trường tự lo về kinh phí hoạt động và tự tăng học phí" , Thứ trưởng nói.
Trong quá trình tự chủ, các trường phải tự thực hiện tự quản trị theo mức độ nhất định thì mới được giao quyền. Khi trường thực hiện tự chủ, Nhà nước sẽ giảm dần việc quản lý về mặt thủ tục hành chính, giao cho các trường tự quyết định. Ở các trường, quyền lực đó sẽ được chia sẻ giữa hội đồng trường và hiệu trưởng.
(Ảnh minh hoạ: H.C)
Bàn về lợi ích của việc tự chủ, theo Thứ trưởng Sơn, khi trường thực hiện tự chủ, các quyết định, thủ tục hành chính sẽ được giải quyết nội bộ nhanh hơn, thiết thực hơn. Nếu việc tự chủ tốt thì người đứng đầu nhà trường sẽ tiếp tục trao quyền tự chủ xuống các cấp khoa, phòng... tạo ra sự năng động, sáng tạo trong toàn hệ thống. Đó là tiền đề để tập hợp trí tuệ của toàn bộ cán bộ, nhân viên nhà trường. Kết quả cuối cùng là mang lại lợi ích cho người học, cho xã hội và nâng cao chỉ số đánh giá của trường.
Trước đây, khi chưa thực hiện cơ chế tự chủ, hiệu trưởng nắm quyền nhiều nhất trong trường đại học, nhưng sau khi áp dụng cơ chế tự chủ thì các trường bắt buộc phải có hội đồng trường. Bởi điều này liên quan đến nhiều vấn đề lợi ích các bên như định hướng, tài sản, chuyên môn... và hiệu trưởng không đủ sức để quản lý hết được. Do đó, cần có hội đồng để cùng quyết định, chia sẻ quyền lực và chia sẻ trách nhiệm với hiệu trưởng.
(Ảnh minh hoạ: C.H)
Ở góc độ các trường, PGS.TS Nguyễn Mai Hương, Chủ tịch hội đồng trường Đại học Mở Hà Nội nêu quan điểm, tự chủ đại học là năng lực tự quản lý dựa trên tính độc lập tương đối của nhà trường với các mối quan hệ từ bên ngoài. Tự chủ đại học là các trường có quyền tự điều chỉnh, điều tra và thể hiện các tính chất liên quan đến hoạt động của nhà trường. Tự chủ đại học luôn gắn với tự chịu trách nhiệm và giải trình.
Trước đây từng có quan niệm tự chủ đại học là tự chủ tài chính, nhưng với bậc đại học thì cái gốc của tự chủ phải bắt đầu từ chuyên môn. Luật Giáo dục đại học cũng chỉ rất rõ, tự chủ đại học là tử chủ toàn diện về học thuật - tổ chức - tài chính cơ sở vật chất.
Khi các trường nắm vận mệnh của mình thì sẽ có quyền quyết định và thực hiện tốt hơn. Từ đó tạo ra sự đa dạng giữa các trường đại học. Sinh viên là người thừa hưởng trực tiếp từ việc tự chủ này.
Ở Đại học Mở Hà Nội, trường thực hiện tự chủ về chuyên môn, mở các ngành học mới phù hợp với yêu cầu nghề nghiệp của xã hội, số lượng sinh viên theo học các ngành cũng tăng lên rõ rệt.
Về nguyên nhân nhiều trường đại học chậm trễ trong thực hiện tự chủ, TS Lê Trường Tùng, Chủ tịch hội đồng quản trị Đại học FPT nhận thấy, hiện có một số cách hiểu, tự chủ gắn với tự túc. Nếu tự túc thì quyền tự trị sẽ ra sao, nên dẫn đến lối suy nghĩ tự chủ đại học là tự chủ tài chính.
"Giáo dục đại học là lĩnh vực đặc thù, tự chủ là quyền của các trường tự quyết, nó khác hoàn toàn với việc tự túc, tự tr ị", ông Tùng nói.
Cũng theo ông Tùng, đến nay, đã quá thời hạn thực hiện Nghị định 99 của Chính phủ về thành lập hội đồng trường, nhưng nhiều nơi vẫn loay hoay chưa thực hiện được - đây là điều kiện tiên quyết trong thực hiện tự chủ đại học. Hay việc đạt chuẩn kiểm định, nhiều trường, nhiều ngành học vẫn chưa hoàn thành khâu đánh giá này, khiến cho việc tự chủ bị trì trệ. Nếu các trường không làm xong hai việc này thì không thể chuyển sang cơ chế tự chủ mới được.
Tự chủ đại học - cơ hội cho phát triển Sau hơn một năm chính thức được quyền tự chủ theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (có hiệu lực từ ngày 1-7-2019), các cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam đã có sự chuyển mình đáng kể. Việc trao quyền tự chủ là cơ hội để các trường nâng cao chất lượng...