Kết nối trường sư phạm và phổ thông: Quan hệ đối tác – lợi ích song hành
Dù nhiều năm qua các trường sư phạm đã nỗ lực giải quyết những bất cập của khâu thực hành nghề sư phạm, nhưng kết quả đạt được vẫn chưa thể làm hài lòng ở mọi khía cạnh: chất lượng chuyên môn; sự lúng túng trước thực tế của giáo sinh; mô hình mối quan hệ giữa trường sư phạm và trường phổ thông; độ cập nhật của nội dung, hệ thống các kĩ năng trước sự thay đổi nhanh chóng của thực tiễn giáo dục…
Cô trò Trường tiểu học Thị trấn Thanh Sơn (huyện Thanh Sơn, Phú Thọ)
Chia sẻ của TS Tôn Quang Cường – Chủ nhiệm khoa Công nghệ Giáo dục (Trường ĐH Giáo dục, ĐHQG Hà Nội).
3 bất cập trong chương trình kiến tập và thực tập sư phạm
- Là người trong cuộc, ông nhận thấy những thách thức nào trong triển khai thực hành nghề sư phạm ở Việt Nam hiện nay?
Thực tế triển khai đào tạo giáo viên hiện nay ở Việt Nam đã cho thấy nhiều bất cập trong chương trình kiến tập và thực tập sư phạm (KT-TTSP) về nhiều phương diện:
Thứ nhất, quan điểm về KT-TTSP: nội dung quan trọng này trong chương trình đào tạo giáo viên thường được coi là phần “gắn theo”, “minh họa” đi sau phần lí thuyết. Quá trình dạy học các môn lí luận thiếu sự tích hợp, lồng ghép những cơ hội trải nghiệm, thực hành các kĩ năng cơ bản, phục vụ cho nghề nghiệp của giáo sinh. Quá trình KT-TTSP không được tận dụng như một cơ hội để tiến hành nghiên cứu giáo dục và sư phạm. Đặc biệt, trong các chương trình đào tạo cao học và nghiên cứu sinh, chương trình phát triển chuyên môn không có phần KT-TTSP;
Thứ hai là độ trễ giữa lí luận và thực tiễn: Hầu hết các môn lí thuyết được triển khai theo logic (tuyến tính, tuần tự) môn học chứ không theo “logic nghề nghiệp”. Bản thân nội dung các môn lí luận được cấu trúc tương đối “độc lập khoa học”, thiếu sự lồng ghép của “tri thức sư phạm” và thực tiễn hành động gắn với bối cảnh giáo dục. Tỉ lệ giữa thời lượng KT-TTSP so với các học phần lí thuyết trong toàn bộ chương trình quá ít (dưới 10%), mức độ cập nhật các nội dung, kĩ năng yêu cầu cho phù hợp với sự thay đổi của thực tế giáo dục còn chậm.
Một bộ phận giảng viên sư phạm khá xa rời với thực tiễn phổ thông; giáo sinh không có cơ hội để thể nghiệm các ý tưởng dạy học theo phong cách, “triết lí”, cách tiếp cận riêng của cá nhân họ mà chủ yếu là thực hành theo “mẫu hình” do giáo viên hướng dẫn tạo nên (trong đó có cả áp lực từ việc phải tuân thủ chặt chẽ lịch trình dạy học ở trường phổ thông).
Thứ ba là mô hình phối kết hợp giữa trường sư phạm và trường phổ thông: chưa có sự tường minh về trách nhiệm (chung và đặc thù) trong sự phối hợp, tổ chức quản lí điều hành, đánh giá các đợt KT-TTSP; mối quan hệ “lợi ích – trách nhiệm” giữa 2 chủ thể này chưa được làm rõ, chưa được thể chế hóa; nhà trường phổ thông chưa trở thành một “chủ thể bị ràng buộc” trong quá trình đào tạo giáo viên; năng lực không đồng đều trong đội ngũ hướng dẫn, chỉ đạo KT-TTSP (bao gồm: giảng viên đại học, giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm của trường phổ thông; thời lượng dành cho KT-TTSP, kinh phí triển khai và các điều kiện khác…
Video đang HOT
TS Tôn Quang Cường
Tường minh về trách nhiệm giữa sư phạm và phổ thông
- Sự gắn kết giữa cơ sở đào tạo giáo viên và trường phổ thông chưa thực sự có hiệu quả như mong muốn. Vậy theo ông, cần làm thế nào để tổ chức tốt KT-TTSP với quan điểm tăng tính thực tiễn trong thiết kế nội dung thực hành, rút ngắn khoảng cách giữa nhà trường sư phạm và phổ thông, đặc biệt, tăng trách nhiệm của trường phổ thông trong quá trình đào tạo giáo viên tương lai?
Nghiên cứu khảo sát một số mô hình KT-TTSP trong chương trình đào tạo giáo viên ở một số nước có thể nhận thấy 2 điểm nổi bật là việc phối kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường sư phạm và phổ thông và nội dung mang tính định hướng thực hành nghề rõ nét.
Hầu hết các cơ sở đào tạo giáo viên đều có trường phổ thông thực hành, tạo điều kiện thuận lợi trong việc triển khai KT-TTSP. Trong một số trường hợp khác, các cơ sở đào tạo giáo viên liên kết với trường phổ thông hình thành hệ thống “trường thực hành vệ tinh”, xây dựng các quy định về chức trách nhiệm vụ riêng cho từng đối tượng giáo viên hướng dẫn: giáo viên kiêm nhiệm, giáo viên bộ môn, giáo viên tư vấn, giảng viên trường sư phạm, cố vấn học tập.
Hình ảnh ngày hội về STEM do Trường ĐH SP Hà Nội tổ chức, kết nối rất tốt giữa các giáo viên tương lai và học sinh phổ thông
Quá trình tổ chức phối kết hợp được quy định chặt chẽ trên cơ sở phân định rõ trách nhiệm giữa nhà trường sư phạm và trường phổ thông nơi giáo sinh thực hiện KT-TTSP.
Nhà trường sư phạm giữ vai trò chủ đạo trong việc xây dựng chương trình tổng thể, lịch trình, kế hoạch thực hiện chi tiết để phối hợp với trường phổ thông (và các bên liên quan trong quá trình diễn ra KT-TTSP);
Các kỳ KT-TTSP thường được tổ chức theo mô hình gắn kết, tích hợp “tại chỗ” với “tại cơ sở”. Ngay trong quá trình học các môn nghiệp vụ mang tính thực hành cao, giáo sinh đã được tiếp cận với nhiều yếu tố, “hơi thở” của nhà trường phổ thông. Ngược lại, trong quá trình làm việc “tại cơ sở”, giáo sinh vừa có cơ hội thực hành trải nghiệm dạy học, vừa được cung cấp thêm những vấn đề lí luận để giải quyết các tình huống phát sinh ngay trong thực tiễn.
Nhà trường sư phạm có trách nhiệm bố trí đội ngũ chuyên môn cao, năng lực sư phạm tốt, để thực hiện tốt chức năng bộ ba “quản lí”, “tư vấn/hướng dẫn nghiệp vụ” cho giáo sinh, “phối hợp thực hiện” với các đồng nghiệp tại trường sư phạm và trường phổ thông.
Mặt khác, trường phổ thông cũng có trách nhiệm lựa chọn các giáo viên giàu kinh nghiệm, có năng lực để phối hợp thực hiện với các giảng viên sư phạm. Đặc biệt, họ sẽ phải chịu trách nhiệm tư vấn và đánh giá các hoạt động KT-TTSP của giáo sinh thực hiện tại cơ sở.
Nhà trường sư phạm có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ tài chính, hành chính sư phạm trên cơ sở đồng thuận với trường phổ thông theo các quy định hiện hành của chính quyền, pháp luật.
Mặt khác, để tăng tính hiệu quả và tính thực tiễn, chương trình KT-TTSP được thiết kế theo tiếp cận năng lực nghề giúp người học có định hướng rõ trong việc hình thành và phát triển kĩ năng giáo dục.
Xin cảm ơn ông!
Theo giaoducthoidai.vn
Nhiều trường đại học, cao đẳng "mỏi cổ" ngóng thí sinh nhập học
Ngày 12.8 là thời hạn cuối cùng thí sinh trúng tuyển nguyện vọng 1 làm thủ tục xác nhận nhập học, nhưng đến nay nhiều trường đại học vẫn trong tình trạng "ngóng" thí sinh.
Ngày 12.8 là hạn cuối cùng để thí sinh trúng tuyển nguyện vọng 1 làm thủ tục xác nhận nhập học. Ảnh minh họa: HN
Không ít trường phải lên kế hoạch tuyển nguyện vọng bổ sung, chỉ mong tuyển đủ sinh viên để duy trì hoạt động giảng dạy.
"Mong mỏi mắt" vẫn không tuyển được sinh viên nào
Giống như năm 2017, "điểm nóng" của mùa tuyển sinh năm 2018 vẫn là các trường sư phạm. Nhiều trường cao đẳng sư phạm lâm vào cảnh "tồn tại như không tồn tại" vì không tuyển được sinh viên.
Năm ngoái, không ít trường sư phạm hạ điểm chuẩn, ở mức 10 điểm/3 môn, nhưng thí sinh vẫn không mặn mà. Năm nay, các trường sư phạm ở địa phương tiếp tục lâm cảnh khó khăn, khi hôm nay là hạn cuối cùng thí sinh xác nhận nguyện vọng học tại trường, nhưng không ít trường có ngành chưa tuyển được thí sinh nào.
Theo thống kê của Trường Đại học Đồng Nai, đến ngày 11.8 vẫn còn 640 thí sinh trúng tuyển vào trường chưa xác nhận nhập học. Đến 17h ngày 12.8, nếu thí sinh này vẫn chưa nộp bản gốc giấy chứng nhận kết quả thi THPT quốc gia 2018 về trường, các em sẽ bị loại khỏi danh sách trúng tuyển.
Cũng theo công bố kết quả tuyển sinh đợt 1 của Trường Đại học Đồng Nai, có 2 ngành bậc Đại học (Sư phạm Lịch sử, Sư phạm Vật lý) và 4 ngành bậc cao đẳng đào tạo sư phạm không có thí sinh nào trúng tuyển.
Nhiều ngành khác của trường dù chỉ lấy chỉ tiêu 20 thí sinh nhưng số người trúng tuyển chưa được một nửa.
Đại học Đồng Nai có nhiều ngành không tuyển được thí sinh nào.
Tương tự, Trường Đại học Tây Nguyên cũng có nhiều ngành chưa tuyển đủ chỉ tiêu, trường vẫn đang mong những thí sinh trúng tuyển làm thủ tục xác nhận nhập học.
Trường đại học tuyển sinh còn "èo uột", các trường cao đẳng sư phạm ở địa phương càng lâm vào thế khó.
Trường Cao đẳng Sư phạm Ninh Thuận, năm 2018 chỉ tuyển sinh 3 ngành, nhưng đến nay ngành Sư phạm tin học không có thí sinh trúng tuyển, Sư phạm tiếng Anh chỉ tuyển được 10 thí sinh.
Trường Cao đẳng sư phạm Đắk Lắk hiện có nhiều ngành mới chỉ tuyển được từ 1-3 sinh viên. Với tình hình tuyển mãi không được sinh viên, nhiều trường đại học, cao đẳng ở địa phương đang lâm vào khó khăn, thiếu kinh phí để trả lương đội ngũ giảng viên và duy trì các hoạt động giảng dạy.
Hạ điểm chuẩn chạm sàn để "vét" thí sinh
Cùng với việc nhiều trường đại học có các ngành không tuyển được thí sinh nào, năm nay cũng diễn ra tình trạng không ít trường hạ điểm chuẩn xuống rất thấp để mong tuyển đủ thí sinh.
Hàng loạt trường có điểm trúng tuyển ở mức 13-14 như Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội; Đại học Kinh tế, Đại học Nông Lâm (Đại học Huế)... Những ngày qua dư luận đã có nhiều tranh cãi về việc lấy điểm chuẩn thấp có ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, đầu ra của trường?
Bày tỏ quan điểm về vấn đề này, ông Trần Anh Tuấn - Phó vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học, Bộ Giáo dục Đào tạo (GDĐT) - thừa nhận năm nay có nhiều trường lấy điểm tiếp nhận hồ sơ là 13.
Tuy nhiên ông Anh Tuấn cảnh báo: Khả năng do số lượng thí sinh đăng ký vào ngành ít, nên các trường lấy điểm chuẩn thấp để tuyển đủ chỉ tiêu. Nhưng về nguyên tắc điểm chuẩn không thấp hơn điểm sàn mà các trường đã công bố trước đó. Nếu phát hiện trường nào hạ điểm chuẩn xuống dưới điểm sàn để tuyển sinh bằng mọi giá, Bộ GDĐT sẽ kiểm tra và xử lý nghiêm.
ĐẶNG CHUNG
Theo laodong.vn
Điểm chuẩn Đại học Sư phạm TP HCM cao nhất 22,55 Chiều 6/8, Đại học Sư phạm TP HCM công bố điểm trúng tuyển, dao động 16-22,55. Mạnh Tùng Theo Vnexpress