Hủ tục rùng rợn giữa chốn thâm sơn cùng cốc
Lối sống hồn nhiên, bản năng hết mình cộng với tư duy đơn giản của đồng bào Tây Nguyên xa xưa đã sinh ra hủ tục hà khắc trong những buôn làng biệt lập giữa thâm sơn, cùng cốc.
“Dọ-tơm-amí” và “Joă ană” (chôn con theo mẹ và đạp cho c.hết) là 2 hủ tục hoang dã gây nên nhiều cái c.hết oan khốc cho trẻ sơ sinh. Những người giàu lòng trắc ẩn đã đứng lên chống lại hủ tục mông muội này.
Theo men rượu cần
Một trong những thành tố không thể thiếu trong không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, vốn quý đã được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại, chính là rượu cần!
Rượu cần giờ có mặt khắp từ Bắc vào Nam. Nhưng chỉ riêng ở Tây Nguyên, bí quyết chế men, ủ rượu cần mới là đặc quyền riêng giao cho phụ nữ. Và các nữ chủ Tây Nguyên không chỉ cất rượu theo lối thông thường, mà còn kèm theo nghi lễ thần bí. Vừa vò men, đồ xôi, nữ chủ vừa lẩm nhẩm hát những bài phù chú gọi men thức dậy, rồi bưng nia xoay vòng, xui men giục người uống say quay cuồng đến “nôn tại ghè, cởi cả khố, tuột cả váy, để được lạc vào nhà người ta/ ăn nằm với vợ người ta “…
Hút cạn hết cần này tới cần khác trong giai điệu chiêng cồng giục giã, trong mùi da thịt hòa quyện “tay nắm tay, chân quấn chân” của vòng xoang dần thít chặt, men rừng dịu ngọt càng ngấm, càng kích thích bản năng trỗi dậy quanh ngọn lửa bốc cao hừng hực đêm rừng… Tất cả phải cùng say, quấn lấy nhau và thỏa mãn tận cùng trong tâm thức lãng quên. Để hôm sau, khi tỉnh dậy, cả khách lẫn chủ không ai còn nhớ đêm qua ai đã làm gì …Thú vui này như một kiểu nghiện, khiến đồng bào xa xưa chẳng bận tâm tích lũy tài sản. Sản lượng gặt hái của mỗi vụ mùa chỉ cần ưu tiên cho các ché rượu. Hễ thiếu ăn lại vác chụp vào rừng đào củ mài, đặt bẫy, vớt cá suối, hái rau rừng qua bữa.
Bản năng văn hóa rượu cần giúp cuộc sống thi vị, lung linh màu sắc, nếu như nó không đi kèm những hủ tục mông muội, tàn nhẫn, bi thương.
Nhà Rông ở Kon Tum
“Dọ tơm amí”
Khởi nguyên, tục “dọ tơm amí” chỉ quẩn quanh trong một số buôn làng của đồng bào Bana, Jơ rai, Jẻ Triêng, những sắc tộc bản địa đông đúc sinh sống lâu đời trên cao nguyên Gia Lai – Kon Tum, phía Bắc Tây Nguyên. Nhưng sau đó, theo những nhóm người ly tán, giao thoa, tục “dọ tơm amí” lan nhiễm qua cả những cộng đồng Xêđăng, S’rá, và vài nhánh Ê đê ở những vùng nghèo khó nhất.
Theo hủ tục này, nếu người mẹ chẳng may c.hết khi vượt cạn thì trẻ sơ sinh phải bị bỏ xuống huyệt chôn theo mẹ. Trẻ đã vài tuần, thậm chí đầy tháng t.uổi mà mẹ ốm c.hết vì kiệt sức, hậu sản, thì đ.ứa t.rẻ cũng bị c.hôn s.ống theo, hoặc bị vứt bỏ giữa bãi tha ma cho c.hết mòn hoặc thú dữ ăn thịt. Buôn làng càng thiếu thốn lạc hậu, hủ tục càng phổ biến vì đồng bào không biết cách nuôi dưỡng hài nhi thiếu sữa mẹ, luôn tin đ.ứa b.é đã làm cho mẹ c.hết cần phải theo mẹ về cõi ma mới mong được chăm sóc tốt hơn… Trên nhiều ngôi mộ chôn chung những đôi mẹ con tội nghiệp người Ba Na, Jơ rai, Jẻ Triêng, vì vậy mà nghệ nhân vẫn tạc tượng nhà mồ tạo hình mẹ ôm con, mẹ cõng con chan chứa tình thương nhưng trĩu nặng thảm sầu.
Joă ană
Văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên tôn trọng quyền tự do yêu đương, chọn lựa bạn đời của các đôi trai gái, trừ trường hợp mặc định từ đầu không thể kết hợp nên sẽ bị cả gia tộc cấm đoán, giữa những đôi trai gái dù khác nhánh nhưng cùng một “gốc họ”, như cùng gốc ” Mlô” hay cùng gốc “Niê” trong tập quán của đồng bào Ê đê.
Video đang HOT
Đồng bào Jơ Rai vùng Ia Le huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai trước kia có tục “ngă mit”, ngă là làm, mit là đêm tối, cho phép con gái vào t.uổi dậy thì được tự do chọn lựa ý trung nhân nếu đã lỡ “ăn cơm trước kẻng” thì có quyền mời người làm chứng để “giữ chân” cho đối tác khỏi “xù”. Nhưng gặp kẻ sở khanh ngă mấy thì ngă, xù vẫn xù, thì sơn nữ lắm khi phải vài lần ngă mit
Khi nàng lấy chồng, nếu người chồng nghi ngờ đ.ứa b.é đầu tiên ra đời không phải con mình, anh ta có quyền yêu cầu vợ hoặc bà đỡ phải Joă ană (đạp đến c.hết), nếu không sẽ mời già làng xét xử, không những mất mặt với cộng đồng mà còn có thể bị đuổi khỏi làng, tựa đi đày biệt xứ. Joă là đạp, ană là con, Joă ană là đạp con cho c.hết, hủ tục này nghiệt ngã tàn khốc hơn cả “dọ tơm amí”
Buộc phải tự thi hành án Joă ană, người phụ nữ vừa gượng dậy sau sinh nở sẽ phải bồng con vô rừng, dùng cây chụp loại chuyên đào củ mài đào một hố tròn sâu, thả đứa con mình vừa rứt ruột đẻ ra dốc ngược đầu xuống đáy hố để hồn ma bé khỏi biết đường về, rồi… đạp và… lấp, trước sự chứng kiến của gã chồng đinh ninh từ nay người vợ này mới hoàn toàn thuộc về mình, đứa con tiếp theo mới chắc chắn là con của mình.
Y tá Y Ngum bế bé A Công Sơn cùng chồng con
Giành lại quyền sống cho trẻ thơ
Cuối tháng 8/2005, nữ y tá Y Ngum ở trạm xá xã Đăk Sao huyện Tu Mơ Rông, tỉnh Kon Tum đón một phụ nữ người Xê Đăng ở làng Kạch Lớn 2 tên là Y Nel, bụng chửa vượt mặt lại bị rắn độc cắn trong lúc lên rừng hái măng. Y Nel tắt thở đúng lúc đứa con trai đầu lòng chào đời. Cộng đồng làng Kạch nhất trí chôn con theo mẹ, anh A Huih, cha bé không dám cãi, nhưng nữ y tá Y Ngum cương quyết không cho làng c.hôn s.ống cháu bé. Được chồng là anh Nguyễn Đức Thành Nam, thành viên đội trí thức trẻ tình nguyện đồng tình ủng hộ, Y Ngum đã thuyết phục được làng Kạch trao cháu bé cho cô nhận làm con nuôi, đặt tên là A Công Sơn.
Đến Kon Tum, đoàn du khách nào cũng được hướng dẫn ghé thăm nhà Rông, Nhà thờ gỗ Kon R’Bang trăm t.uổi nổi tiếng độc đáo số một của thành phố nhỏ bé xinh đẹp phía Bắc Tây Nguyên, rồi vòng ra phía sau tòa giáo đường lộng lẫy thăm một công trình đầy ý nghĩa khác, là Tổ ấm Vinh Sơn thuộc dòng Ảnh Phép Lạ (APL) – dòng tu duy nhất trên cả nước do các nữ tu người dân tộc thiểu số sáng lập- nơi nửa thế kỷ qua đã cưu mang nuôi nấng mấy trăm trẻ nhỏ mồ côi tật nguyền, trong đó có nhiều em bé được giành khỏi tay tử thần “Dọ tơm amí” và “Joă ană”.
Bà đỡ hoặc người vợ đáng thương biết sinh linh trong bụng mình sắp b.ị g.iết, đã trốn làng chạy đến tu viện cầu xin cứu vớt. Những thân phận Dọ tơm amí, Joă ană đầu tiên về với dòng APL từ năm 1947. Tiếng lành đồn xa, càng ngày số trẻ bất hạnh được đưa về Tổ ấm càng đông, các nữ tu phải tách cơ sở làm đôi. Tổ ấm I lặng lẽ nép mình sau Nhà thờ gỗ. Tổ ấm II cách gần 2 cây số, nằm khuất sâu trong thôn Kon Harachot.
Xơ Y Blưih người dân tộc Bơhnar là mẹ cả của Tổ ấm Vinh Sơn I. Xơ Gông người dân tộc Xêđăng là mẹ cả của Tổ ấm Vinh Sơn II. Hai bà năm nay đều đã 63 t.uổi, nhân từ phúc hậu, đi tới đâu đàn cháu nhỏ cũng vẫy gọi rối rít và giơ tay đòi bế. Để có đủ cơm áo nuôi nấng hàng trăm trẻ nhỏ, có t.iền thuê thầy cô vào dạy học, các xơ phải vừa chăm trẻ vừa tổ chức lao động sản xuất.
Từ đây, nhiều thân phận bất hạnh đã có cơ hội học hành đỗ đạt. Vượt qua rào cản ngôn ngữ, theo kịp các bạn ở các trường công lập là cố gắng lớn. Thi đậu vào cao đẳng, đại học lại là kỳ tích của cả mẹ và con. Các xơ thuộc lòng tên t.uổi những đứa con mang lại niềm tự hào, thành tấm gương sáng cho lớp em sau ở tổ ấm: A Huyên, A Nương, dân tộc Bơhnar, A Rươh dân tộc Jơlâng, Y Yêm dân tộc Xơđăng, Y Thu người S’rá, Alê Khăm dân tộc Rơngao, Y Loai dân tộc Jơlâng …
Xơ Y Blưih bồng một em bé xinh như thiên thần, kể cho tôi nghe: Em bé này người Jơ Rai, đã may mắn khỏi c.hết oan vì bị chôn theo mẹ. Khi bé được 4 tháng t.uổi, mẹ bé ở làng Kon Thup, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai địu con lên rẫy bị trúng gió qua đời. Dân làng họp lại, đồng tình Dọ tơm amí.
Một phụ nữ nhân hậu cùng làng nghe tin vội bỏ buổi tuốt lúa chạy về nài xin làng cho chị nhận bé làm con nuôi, dù nhà chị cũng nghèo và có tới 7 đứa con. Đón được bé về, vợ chồng chị làm khai sinh, đặt tên cháu là Pi Yo Rong rồi báo cho một nữ tu ở TP Plây Ku nhờ giúp đỡ.
Bố nuôi cầm lái xe máy, nữ tu ngồi sau ôm Pi Yo Rong chạy mấy chục cây số qua Kon Tum xin mẹ cả Y Blưih nhận cháu. Về nơi ở mới, Pi Yo Rong được chị Y Loan người Xêđăng quê huyện Ngọc Hồi, Kon Tum đang học lớp 6 nhận làm em nuôi, vì mười mấy năm trước Y Loan cũng được cứu khỏi tục chôn con theo mẹ .
Giờ cuộc sống từng ngày đổi thay, buôn làng khắp Tây Nguyên giờ đều đã tiến bộ, tiện nghi đầy đủ hơn xưa. Hủ tục “Dọ tơm amí” và “Joă ană” dần lui vào dĩ vãng.
(Còn nữa)
Theo T.iền Phong
Bí ẩn sau tục ‘nuôi người c.hết’ của người H’Mông
Có một lời đồn về người H'Mông ở Phù Yên, Sơn La, rằng, người c.hết được buộc đứng vào cột trước hiên nhà. Hằng ngày x.ác c.hết vẫn được người thân bón cơm và thức ăn như người đang sống. Đâu là thực hư của lời đồn này?.
Đi tìm ẩn số
Giữa cái nắng mùa hè oi ả, vượt qua chặng đường dài 170 cây số, chúng tôi có mặt tại thị trấn Phù Yên, Sơn La. Đến nơi cũng là giữa ngọ, nền nhiệt ngoài trời cao đến gần 40 độ C. Tìm những bóng râm nghỉ cho lại sức, và chúng tôi bắt tay vào hành trình giải mã lời đồn.
Ở các quán nước vệ đường bên ly trà đá, chúng tôi bắt chuyện với dân bản địa về tập tục chôn cất người đã khuất của dân tộc H'Mông. Nhiều người kể rành rọt rằng sau khi c.hết người H'Mông được buộc đứng vào cột hiên trước nhà đến vài ngày và vẫn được người thân bón cơm và thức ăn như người còn đang sống.
Già làng Sùng Gà Của
Tuy nhiên khi hỏi có ai chứng kiến việc này chưa thì những người "kể y như thật" lại bảo họ cũng chỉ nghe kể lại. Muốn biết chắc chắn sự thật, không còn cách nào khác là tìm đến nơi đồng bào người H'Mông sinh sống cheo leo trên núi cao.
Trời vẫn hầm hập nắng, chúng tôi lại hăm hở tìm đến những bản làng người H'Mông.
Điểm đến đầu tiên mà chúng tôi chọn đó là xã Suối Tọ, cách trung tâm huyện gần 20 cây số. Tiếp chúng tôi tại phòng khách ủy ban là anh Thào A Trư Bí thư xã Suối Tọ. Anh Trư là một cán bộ trẻ và cũng là người H'Mông.
Trao đổi với phóng viên, anh Thào A Trư khẳng định: "T ất cả những lời truyền miệng của người dân vùng dưới về việc chôn cất của đồng bào H'Mông là hoàn toàn sai sự thật. Không có chuyện buộc đứng người c.hết lên cột hiên trước nhà và bón cơm như người còn đang sống. Mặc dù trước kia phong tục chôn cất của người H'Mông còn có những mặt chưa phù hợp với thời đại nhưng ngày nay với công tác tuyên truyền thì những mặt hạn chế đó dần mất đi rồi ."
Treo người c.hết trong nhà rồi mới đem chôn
Để tìm hiểu rõ hơn về văn hóa tâm linh của người H'Mông, đồng chí Bí thư trẻ đã cử người đưa chúng tôi đến gặp già làng Sùng Gà Của ở bản Lũng Khoai A, chỉ cách ủy ban xã mấy trăm mét.
Gần đấy, nhưng đường vào nhà già làng là một con đường đất thật là khó đi, đường chỉ rộng vừa đủ cho một chiếc xe máy đi vừa. Một bên là núi và một bên là vực và khá trơn. Nếu tay lái không vững, chỉ cần một sơ sểnh nhỏ là cả xe và người sẽ chui tọt xuống vực sâu.
Già làng Gà Của đang ngồi trên chiêc phản gỗ trong một căn nhà bằng gỗ khá bề thế, nền nhà lát gạch hoa sạch sẽ. Dáng người nhỏ bé, tay cầm chiếc tẩu thuốc, thấy khách đến, già nhổm dậy mời khách vào nhà.
Thấy anh cán bộ xã giới thiệu có phóng viên muốn đến tìm hiểu phong tục mai táng của người H'Mông, già làng cười vui vẻ: " Không phải vậy đâu, người H'Mông sau khi mất được mặc một bộ quần áo tang theo phong tục có từ đời trước. Khi gia đình có người qua đời thì bàn thờ ở gian giữa được di chuyển đi chỗ khác và thay vào đó là hai thanh gỗ hoặc tre được buộc thêm những thanh ngang có chiều rộng vừa đủ để người c.hết nằm vào đó.
Sau khi người mất được mặc quần áo tang và đặt vào hai thanh gỗ thì hai thanh gỗ và người c.hết được dùng dây thừng treo lên cách mặt nền nhà khoảng một mét. Lúc này gia đình đã có rất đông người đến để làm ma.Trong đám tang có người cúng cho vong hồn người c.hết là thầy mo, có người chủ trì cho mọi công việc và có cả kèn trống.
Mọi người đến thắp hương để được gặp mặt người đã khuất lần cuối và ở lại dùng bữa chia buồn cùng gia đình. Trước khi dùng bữa thì gia đình xới một bát cơm, lấy một ít thức ăn có trong bữa và thầy mo bắt đầu làm nghi lễ mời người c.hết về dùng cơm với người thân để thể hiện tình cảm của người còn sống với người khuất.
Thời gian để người c.hết ở trong nhà lâu hay chóng tùy thuộc vào gia đinh có đông con cháu hay không nhưng tối đa không quá ba ngày. Sau những ngày ở nhà, người c.hết đươc hạ xuống và khiêng đi chôn cất.
Ngôi nhà của người H'Mông trên núi cao
Ngoài khu chôn cất, một chiếc huyệt đã được đào và một chiếc áo quan mở nắp được đặt sẵn ở dưới. Sau khi khiêng người c.hết ra huyệt, mọi người làm lễ đưa người c.hết vào áo quan, đậy nắp và lấp thành mộ. Như vậy công việc của tang lễ coi như đã hoàn tất".
Vậy là đã rõ, tang ma của người H'Mông nơi này cũng có nhiều nét tương đồng với người Kinh. Điểm khác biệt lớn nhất chính là việc treo người c.hết lên giữa nhà. Mãi đến lúc đưa đi chôn mới cho thân xác vào áo quan. Đây cũng là điều khiến chúng tôi trăn trở.
Rời Suối Tọ, chúng tôi lại trèo đèo lội suối tìm đến với một vài bản người H'Mông khác, qua gặp gỡ và tiếp xúc với nhiều Già làng, họ cũng đều khẳng định phong tục mai táng người c.hết của người H'Mông ở đây cũng giống với những người H'Mông ở Suối Tọ mà chúng tôi vừa đến.
Chúng tôi băn khoăn một điều, người c.hết không cho nhập quan ngay mà treo trong nhà, có khi đến vài ba ngày, hẳn là điều không tốt. Nhất là những người ốm đau bệnh tất, cộng với những lúc thời tiết khắc nghiệt sẽ là p.hân h.ủy cơ thể, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và môi trường sống cho chính gia đình của người có tang.
Chính quyền nơi đây cũng đang vận động bà con nên cho người c.hết nhập quan khi vừa mất, để đảm bảo vệ sinh và phòng tránh một số bệnh lây truyền.
Thiết nghĩ thay đổi một tập tục là rất khó, nhưng những tập tục có thể trở thành hủ tục thì bà con nên thay đổi để phù hợp với điều kiện sống văn minh.
Theo vietbao
Hủ tục trẻ sơ sinh theo mẹ sống bìa rừng Đ.ứa t.rẻ mới sinh còn đỏ hỏn đã phải theo mẹ ra túp lều ngoài bìa rừng sống. Đối mặt với sự cô đơn nơi rừng sâu núi thẳm, chống chọi với mưa gió bão bùng và nằm cạnh kiến, rệp, bọ chó, người mẹ chỉ biết ngẩng mặt lên trời mà than. Thương mẹ trẻ, xót con thơ Trên cao nguyên đá...