Hợp tác đa phương trong tăng trưởng kinh tế toàn cầu
Kể từ sau Báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới hồi tháng 4/2024, kinh tế thế giới đã chứng kiến những diễn biến đáng chú ý, mặc dù những dự báo cho năm nay vẫn duy trì ở mức 3,2% và tăng nhẹ ở mức 3,3% cho năm sau.
Cụ thể, tăng trưởng ở các nền kinh tế tiên tiến quan trọng đang trở nên đồng đều hơn khi khoảng cách sản lượng đang thu hẹp lại. Dấu hiệu hạ nhiệt đang xuất hiện tại Mỹ, đặc biệt là trên thị trường lao động, sau một năm 2023 mạnh mẽ. Trong khi đó, khu vực đồng euro đang sẵn sàng phục hồi sau màn trình diễn gần như “giậm chân tại chỗ” vào năm ngoái.
Các nền kinh tế thị trường mới nổi của châu Á vẫn là động lực chính cho nền kinh tế toàn cầu. Tăng trưởng ở Ấn Độ và Trung Quốc được điều chỉnh tăng lên và chiếm gần một nửa tăng trưởng toàn cầu. Tuy nhiên, triển vọng trong 5 năm tới vẫn còn yếu, phần lớn là do đà tăng trưởng suy yếu ở các nền kinh tế mới nổi ở châu Á. Đến năm 2029, tăng trưởng ở Trung Quốc được dự đoán sẽ ở mức vừa phải – 3,3%, thấp hơn nhiều so với tốc độ hiện tại.
Bất chấp những biến động, kinh tế thế giới vẫn chứng kiến nhiều tín hiệu lạc quan.
Hồi tháng 4, các dự báo cho thấy lạm phát toàn cầu sẽ giảm xuống còn 5,9% trong năm nay so với mức 6,7% năm ngoái và nhìn chung đang trên đà “hạ cánh” nhẹ nhàng. Ở một số nền kinh tế tiên tiến, đặc biệt là Mỹ, tiến trình giảm lạm phát đã chậm lại và rủi ro đang gia tăng.
Rủi ro và thách thức
Trong bản cập nhật về Triển vọng Kinh tế thế giới mới nhất, các nhà kinh tế nhận thấy rằng các rủi ro nhìn chung vẫn ở mức cân bằng, nhưng có 2 nhược điểm trong ngắn hạn đã trở nên nổi bật.
Video đang HOT
Đầu tiên, những thách thức tiếp theo đối với việc giảm lạm phát ở các nền kinh tế tiên tiến có thể buộc các ngân hàng trung ương, bao gồm cả Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED), phải duy trì chi phí đi vay ở mức cao hơn trong thời gian dài hơn nữa. Điều đó sẽ khiến sự tăng trưởng nói chung gặp rủi ro, trong đó có áp lực tăng giá đối với đồng USD và tác động lan tỏa có hại đến các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển.
Việc thu thập thêm bằng chứng thực nghiệm chỉ ra tầm quan trọng của các cú sốc lạm phát “hàng đầu” trên toàn cầu – chủ yếu là giá năng lượng và lương thực – trong việc thúc đẩy lạm phát gia tăng và sau đó là sự suy thoái ở nhiều quốc gia.
Tin tốt là khi các cú sốc nói trên đang giảm đi và lạm phát cũng giảm mà không có suy thoái xảy ra. Tin xấu là lạm phát giá năng lượng và lương thực hiện gần như quay trở lại mức trước đại dịch ở nhiều quốc gia, trong khi lạm phát tổng thể thì không.
Lý do ở đây là giá hàng hóa vẫn ở mức cao so với dịch vụ, hậu quả của đại dịch ban đầu thúc đẩy nhu cầu hàng hóa trong khi hạn chế nguồn cung. Điều này làm cho dịch vụ tương đối rẻ hơn, làm tăng nhu cầu tương đối của chúng – và nói rộng hơn là tăng nhu cầu lao động cần thiết để sản xuất ra chúng. Điều này đang gây áp lực lên giá dịch vụ và tiền lương.
Thật vậy, giá dịch vụ và lạm phát tiền lương là 2 vấn đề được quan tâm chính khi nói đến con đường giảm phát và tiền lương thực tế hiện đã gần bằng mức trước đại dịch ở nhiều quốc gia. Trừ khi lạm phát giá hàng hóa giảm hơn nữa, giá dịch vụ tăng và tiền lương tăng có thể khiến lạm phát chung cao hơn mức mong muốn. Ngay cả khi không có những cú sốc tiếp theo, đây vẫn là một rủi ro đáng kể đối với kịch bản hạ cánh mềm.
Thứ hai, những thách thức tài chính cần được giải quyết trực tiếp hơn. Suy thoái về tài chính công đã khiến nhiều quốc gia dễ bị tổn thương hơn so với dự đoán trước đại dịch. Việc xây dựng lại những quỹ dự trữ một cách dần dần và đáng tin cậy, trong khi vẫn bảo vệ những người dễ bị tổn thương nhất, là một ưu tiên quan trọng. Việc làm này sẽ giải phóng các nguồn lực để giải quyết các nhu cầu chi tiêu mới nổi như chuyển đổi khí hậu hoặc an ninh năng lượng và quốc gia.
Quan trọng hơn, những quỹ dự trữ mạnh hơn sẽ cung cấp nguồn lực tài chính cần thiết để giải quyết những cú sốc bất ngờ. Tuy nhiên, có quá ít việc được thực hiện, làm tăng thêm sự không chắc chắn về chính sách kinh tế. Việc củng cố tài chính dự kiến phần lớn là không đủ ở rất nhiều quốc gia. Điều đáng lo ngại là một quốc gia như Mỹ, với tình trạng toàn dụng lao động, vẫn duy trì quan điểm tài chính khiến tỷ lệ nợ trên GDP của nước này tăng cao đều đặn, gây ra rủi ro cho cả nền kinh tế trong nước và toàn cầu. Sự phụ thuộc ngày càng tăng của Mỹ vào nguồn tài trợ ngắn hạn cũng đáng lo ngại.
Giải pháp
Thật không may, sự không chắc chắn về chính sách kinh tế vượt ra ngoài những cân nhắc về tài chính. Việc dỡ bỏ dần hệ thống thương mại đa phương là một mối lo ngại lớn khác. Nhiều quốc gia hiện đang đi theo con đường riêng của mình, áp đặt thuế quan đơn phương hoặc các biện pháp chính sách công nghiệp mà việc tuân thủ các quy tắc của Tổ chức Thương mại Thế giới là điều đáng nghi ngờ nhất. Hệ thống thương mại không hoàn hảo có thể được cải thiện, nhưng sự gia tăng các biện pháp đơn phương này không có khả năng mang lại sự thịnh vượng toàn cầu chung và lâu dài.
Các lực lượng kinh tế vĩ mô là những yếu tố quyết định chính của sự cân bằng bên ngoài. Nếu sự mất cân bằng phát triển quá mức, các biện pháp hạn chế thương mại sẽ vừa tốn kém, vừa không hiệu quả trong việc giải quyết các nguyên nhân cơ bản về kinh tế vĩ mô. Các công cụ thương mại có vai trò trong kho chính sách, nhưng vì thương mại quốc tế không phải là trò chơi có tổng bằng 0 nên chúng phải luôn được sử dụng một cách tiết kiệm, trong khuôn khổ đa phương và để điều chỉnh những sai lệch đã được xác định rõ ràng. Thật không may, chúng ta ngày càng thấy mình xa rời những nguyên tắc cơ bản này.
Hợp tác đa phương mang tính xây dựng vẫn là cách duy nhất để đảm bảo một nền kinh tế an toàn và thịnh vượng cho tất cả mọi người.
Eurozone: Tăng lương không phải là yếu tố gây tăng lạm phát
Mặc dù việc điều chỉnh tăng lương theo lạm phát đã được thực hiện, nhưng quý I/2024, 16 quốc gia thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), trong đó có một số nước thuộc khu vực đồng euro (Eurozone), vẫn có mức lương thực tế thấp hơn so với giai đoạn trước đại dịch COVID-19, tức là vào cuối năm 2019.
Biểu tượng của khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone). Ảnh: AFP/TTXVN
Báo Les Echos (Pháp) dẫn báo cáo của OECD cho biết, 29 trong số 35 quốc gia thành viên được khảo sát trong quý I/2024 cho thấy tốc độ tăng giá hàng hóa trên thực tế đã giảm rõ rệt trong 1,5 năm qua. Nhưng những tổn thất về sức mua vẫn chưa được giải quyết triệt để tại nhiều nước.
Nguyên nhân là do, trong quý đầu năm 2024, 16 quốc gia OECD có mức lương thực tế thấp hơn mức lương trung bình ba tháng cuối năm 2019. Đặc biệt, tại Eurozone, tiền lương thực tế trong quý I/2024 đã giảm khoảng 2% so với cuối năm 2019.
Chuyên gia François Geerolf, nhà kinh tế học tại Trung tâm Quan sát Điều kiện Kinh tế Pháp (OFCE), nhận xét, tỷ lệ lợi nhuận của các doanh nghiệp trong khu vực đồng euro vào cuối năm 2023 cao hơn 2 điểm so với mức cuối năm 2019. Đáng chú ý, lạm phát không được tạo ra bởi tiền lương mà bởi lợi nhuận.
Đang có tình trạng các doanh nghiệp lợi dụng tình trạng "sương mù" do lạm phát gây ra để tăng giá bán. Điều này khiến lạm phát không thể giảm và việc tăng lương chắc chắn vẫn sẽ là chủ đề được đề cập đến trong những tháng tới tại Eurozone.
Đầu tháng Bảy, trong một bài phát biểu ở Naples (Italy), nhà kinh tế trưởng của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB), Philip Lane, cho rằng tiền lương của người lao động châu Âu sẽ tăng khoảng 4,5% trong quý II/2024 (không bao gồm lạm phát) sau khi đã tăng 5% trong quý I/2024. Tính trung bình cả năm, tốc độ tăng lương ước tính của Eurozone vào khoảng 2,5% sức mua của người lao động.
Nhưng tốc độ tăng năng suất lại đang diễn ra rất yếu ở khu vực đồng euro. Nhà kinh tế học tại Ngân hàng Société Générale (SG), Michel Martinez, nói: "Cần phải tăng năng suất đáng kể để nhịp độ tăng lương phù hợp với lạm phát ở mức 2%, tương ứng với mục tiêu của ECB".
Theo đánh giá của chuyên gia Martinez, thị trường lao động tại Eurozone vẫn diễn ra căng thẳng. Kết quả các cuộc khảo sát thị trường việc làm cho thấy các doanh nghiệp vẫn tiếp tục phàn nàn về những khó khăn trong tuyển dụng. Trong bối cảnh khủng hoảng lạm phát và tỷ lệ lãi suất tăng cao, có thể dự đoán các doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn về cầu hơn là cung lao động. Tỷ lệ thất nghiệp, hiện là 6,4%, vẫn ở mức thấp lịch sử tại Eurozone.
Từ tháng 5/2019 - 5/2024, mức lương tối thiểu tại 30 quốc gia OECD đã tăng trung bình 12,8% (bao gồm cả việc tính đến lạm phát). Tuy nhiên, tác động tăng lương của mỗi quốc gia là rất khác nhau. Tại một nửa số quốc gia thành viên OECD, ở các khu vực có mức lương trung bình thấp, tiền lương thực tế phát huy hiệu quả tương đối tốt hơn so với những khu vực có mức lương trung bình tương đối và cao".
Đồng euro tăng vọt sau vòng 1 bầu cử Quốc hội tại Pháp Thị trường tiền tệ chứng kiến biến động trái chiều sau vòng 1 bầu cử Quốc hội Pháp diễn ra vào ngày 30/6. Biểu tượng đồng euro tại Frankfurt, Đức. Ảnh: THX/TTXVN Ngày 1/7, đồng euro tăng 0,24% lên mức 1 euro đổi được 1,0737 USD sau khi kết quả kiểm phiếu sơ bộ vòng 1 của cuộc bầu cử Quốc hội cho...