Hợp tác chuyển giao công nghệ: Cần đảm bảo liên kết bền vững, nghiên cứu thực chất
Với mục tiêu “tăng cường hợp tác địa phương, doanh nghiệp thể hiện vai trò nòng cốt trong hệ thống giáo dục và trách nhiệm xã hội”, Đại học Quốc gia TPHCM (ĐHQG-HCM) đã tích cực triển khai nhiều chương trình kết nối đến các địa phương, doanh nghiệp, tổ chức nhằm mang đến những giá trị chuyển giao, đóng góp vào sự phát triển kinh tế văn hóa, xã hội của đất nước. Tuy nhiên thực tế hoạt động ở đơn vị này cũng đặt ra nhiều lưu ý với mô hình hợp tác.
Hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ tại Trường ĐH Bách khoa TPHCM
Hợp tác để chuyển giao khoa học công nghệ và phát triển kinh tế bền vững
Trong nhiều năm quan, ĐHQG-HCM đã nỗ lực ký kết hợp tác với một số tỉnh thuộc 4 khu vực trọng tâm Đông Nam Bộ, khu vực Tây Nguyên, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và khu vực duyên hải miền Trung; với một số đơn vị như Bộ Khoa học Công nghệ, Ban Kinh tế Trung ương, Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI), Ban Quản lý khu công nghệ cao; Đài Truyền hình TPHCM; với một số doanh nghiệp như Becamex Bình Dương, Mobifone, Tôn Hoa Sen, Viettel…
Từ những nội dung hợp tác cơ bản ban đầu về đào tạo và nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, các chương trình hợp tác được đề xuất ngày càng được mở rộng về nội dung và đi vào chiều sâu như xây dựng chính sách, phát triển khởi nghiệp, xây dựng thành phố thông minh, phát triển các sản phẩm du lịch đặc thù…
Tuy nhiên, theo báo cáo của phòng Quan hệ Đối ngoại thuộc ĐH Bách khoa TPHCM (thành viên của ĐHQG-HCM), các kết quả nghiên cứu và thực tế cho thấy có những khó khăn đến từ nhiều phía.
Đó là sự hạn chế về nhận thức, thông tin, sự thiếu hụt về niềm tin; hạn chế về nguồn lực triển khai, đặc biệt là vốn đầu tư ban đầu cho các dự án hợp tác; thiếu đồng bộ về cơ chế và quy trình trong phối hợp của các bên.
Ngoài ra, các rào cản còn đến từ khung pháp lý và các chính sách liên quan chưa đủ mạnh để tạo dựng nền tảng hợp tác.
Để vượt qua khó khăn, ĐHQG-HCM vừa tự khẳng định uy thế học thuật vừa chủ động vận động liên kết với các tập đoàn và doanh nghiệp lớn đang tìm kiếm đối tác nghiên cứu và xây dựng chiến lược R&D (nghiên cứu – phát triển) đổi mới sáng tạo.
Ngoài sứ mệnh đào tạo nhân lực chất lượng cao, ĐHQG-HCM phải quan tâm thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu, các phát minh sáng chế nhằm kết nối với các doanh nhân, tổ chức và các ngành công nghiệp.
Quá trình chuyển giao công nghệ ở các trường thành viên
Sau nhiều năm triển khai mô hình hợp tác hiệu quả, các trường thành viên của ĐHQG-HCM đều gặt hái được những thành tựu nhất định.
Trường ĐH Bách khoa TPHCM đã thực hiện nhiều chương trình liên kết, phát triển hàng chục dự án chuyển giao khoa học công nghệ tầm cỡ. Đơn cử như Dự án Đánh giá ô nhiễm BPA và phthalates tại một số nguồn thải chính trên địa bàn TPHCM – Rủi ro sức khỏe và môi trường, đề xuất giải pháp kiểm soát và giảm thiểu ô nhiễm do nhà trường liên kết với Sở Khoa học Công nghệ TPHCM thực hiện hay đề án Nghiên cứu điều chế kết tủa struvite từ nước tiểu làm sản phẩm phân bón, ký kết với Công ty Vietnam Brewery Co. Ltd.
Với tầm nhìn trở thành trường đại học nghiên cứu, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn trong thời gian qua đã thúc đẩy công tác nghiên cứu theo hướng phát triển khoa học đỉnh cao và phục vụ cộng đồng.
Video đang HOT
Theo TS Ngô Thị Phương Lan, giảng viên nhà trường, qua gần 5 năm triển khai, nhà trường thành lập nhiều trung tâm nghiên cứu như Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế CIS, Trung tâm Nghiên cứu Nông thôn Saemaul Undong, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Chính sách Quốc gia…nhằm hướng đến phục vụ các yêu cầu của địa phương một cách có hệ thống.
Theo đó, dựa trên các nhu cầu đặt hàng của địa phương hay nhận diện nhu cầu của địa phương nhà trường sẽ thành lập các nhóm nghiên cứu liên ngành trong nội bộ hoặc ngoài lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn.
Chuyển giao khoa học công nghệ ở ĐH Thái Nguyên
Nhiều dự án nghiên cứu khoa học của trường được triển khai hiệu quả theo đơn đặt hàng như: Nghiên cứu biến đổi khí hậu và chống hạn mặn; Công nhân và an sinh xã hội tại các KCN, KCX; Phát triển kinh tế-xã hội nông thôn đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới; Nghiên cứu tri thức bản địa của các tộc người Nam bộ và Nam Tây Nguyên…
Bên cạnh rất nhiều thuận lợi và thành tựu, việc hợp tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ giữa các trường thành viên ĐHQG-HCM với các địa phương và doanh nghiệp cũng gặp phải không ít khó khăn.
Theo báo cáo tổng kết của Trung tâm Nghiên cứu và Chuyển giao công nghệ (ĐH Quốc tế TPHCM), khó khăn đầu tiên là việc kết nối với doanh nghiệp và địa phương, quá trình xây dựng niềm tin giữa hai bên còn mất nhiều thời gian.
Các chủ nhiệm đề tài/dự án thành viên và thư kí đa số đều là giảng viên cơ hữu nên sau thời gian làm tham gia giảng dạy tập trung, họ chỉ có thể dành thời điểm nghỉ hè cho nghiên cứu chuyển giao, trong khi yêu cầu của doanh nghiệp là rất khẩn trương. Chính vì vậy, nhiều hoạt động nghiên cứu chỉ mang tính hình thức, nhiều sản phẩm khoa học không có giá trị ứng dụng thực tiễn.
Đại diện phòng Quan hệ Đối ngoại của Trường ĐH Bách khoa cho biết thêm: “Nhiều sản phẩm nghiên cứu chưa gắn liền với ứng dụng thực tiễn do phần lớn các đại học và các nhà khoa học chủ yếu tập trung vào nghiên cứu khoa học theo đặt hàng ở giai đoạn nghiên cứu cơ bản vì không có rủi ro”.
Phải đảm bảo liên kết bền vững và nghiên cứu thực chất
Để duy trì công tác hợp tác chuyển giao khoa học công nghệ một cách hiệu quả, đòi hỏi ĐHQG-HCM phải xây dựng được những mô hình liên kết bền vững, bên cạnh việc xác định tầm nhìn và hướng đi đúng đắn.
PGS-TS Huỳnh Quyền cho rằng: “Trên thế giới, mô hình hợp tác đưa khoa học và công nghệ vào phát triển kinh tế được triển khai dưới dạng 2 mô hình cơ bản, thứ nhất là mô hình hợp tác “3 chủ thể”, đó là Đại học- Địa phương và Doanh nghiệp. Song song với mô hình này, tồn tại một mô hình “4 chủ thể” Đại học – Địa phương – Doanh nghiệp và Người dân (xã hội).
Mô hình hợp tác thứ hai có thể cho thấy tính bền vững và vai trò của từng chủ thể trong một hoạt động hợp tác đưa khoa học và công nghệ vào phát triển kinh tế”.
Khi địa phương và ĐH ký kết “hợp đồng đặt hàng”, vai trò của doanh nghiệp thụ động và mờ nhạt. Chính quyền địa phương được hiểu như là một nhà đầu tư.
Với cách thức này, các lĩnh vực được đặt hàng sẽ tập trung vào cải thiện chất lượng dịch vụ công và xử lý các vấn đề thực tiễn đặt ra phù hợp với giới hạn về nguồn lực của địa phương. Mô hình hợp tác “hợp đồng đặt hàng” chỉ thực hiện các nhiệm vụ có tính ngắn hạn, cấp bách.
Mô hình hợp tác “đối tác” giữa các bên đem lại hiệu quả sâu rộng hơn. Trong trường hợp phải xử lý những vấn đề phức tạp, mang tính chiến lược, lâu dài thì mô hình hợp tác này sẽ được triển khai. Vì có thêm sự tham gia mạnh mẽ của bên thứ ba là doanh nghiệp và thậm chí sẽ có một số bên thứ tư khác trong từng bối cảnh cụ thể nên khả năng giám sát và hiệu quả thực tiễn cao hơn.
Mô hình này xuất hiện hình thức hợp tác cao cấp hơn như trao đổi chuyên gia, tri thức, công nghệ; cùng đầu tư hình thành doanh nghiệp để thương mại hóa kết quả nghiên cứu và cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho xã hội…
Cũng theo PGS-TS Huỳnh Quyền, khi xây dựng mô hình hợp tác, các bên phải xác định rõ vai trò và động lực hợp tác.
Về phía các trường đại học, trong bối cảnh cạnh tranh, hội nhập với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đòi hỏi các trường đại học phải thay đổi tổ chức và các họat động quản trị đại học hướng tới mục tiêu phục vụ cộng đồng, đáp ứng các nhu cầu của xã hội trong đó có nhu cầu của địa phương của doanh nghiệp.
Quan trọng, trường ĐH phải từ bỏ cơ chế xin cho, cửa quyền, cần xem doanh nghiệp thực sự là khách hàng, là một chủ thể hợp tác.
Trong xu hướng sắp tới, các trường ĐH không thể nào nâng cao chất lượng và cải thiện vị thế khi còn thờ ơ với việc hợp tác chuyển giao khoa học công nghệ.
Hoạt động này là phương thức huy động các nguồn lực phục vụ cho quá trình nghiên cứu và tăng cường năng lực cho đội ngũ khoa học của nhà trường. Các công trình nghiên cứu được thương mại hóa sẽ có cơ sở để đối chiếu, kiểm nghiệm tính ứng dụng nên nghiên cứu phải đảm bảo thực chất.
Theo Giaoducthoidai.vn
Hệ thống giáo dục mở nên hiểu theo cách của thế giới
Đó là ý kiến của TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến - nguyên Trợ lý Bộ trưởng Bộ GD&ĐT khi góp ý vào Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục về hệ thống giáo dục quốc dân.
Giáo dục mở (open education) là giáo dục trong đó các rào cản trên con đường đến với giáo dục được gỡ bỏ.
Hướng tới sự đồng thuận về giáo dục mở
TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến- cho rằng: Hệ thống giáo dục quốc dân là hệ thống giáo dục mở, linh hoạt, liên thông, đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của mọi người.
"Quy định này nhằm thể chế hóa chủ trương xây dựng hệ thống giáo dục mở đã được đưa thành quan diểm chỉ đạo trong Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT. Có điều thế nào là hệ thống giáo dục mở. Hiện nay, mỗi người chúng ta đều có cách hiểu khác nhau về khái niệm này. Vì vậy cần phải được định nghĩa hướng tới sự đồng thuận" - TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến trao đổi.
Theo TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến, nên hiểu theo cách hiểu của thế giới. Theo đó giáo dục mở (open education) là giáo dục trong đó các rào cản trên con đường đến với giáo dục được gỡ bỏ. Vấn đề là định nghĩa này được đưa vào ngay trong Luật hay để quy định trong Nghị định hướng dẫn thi hành Luật.
"Theo tôi nên để trong Nghị định vì nó còn liên quan đến một nội dung nữa cần bổ sung vào hệ thống giáo dục quốc dân. Đó là khung trình độ quốc gia" - TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến đề xuất.
Liên quan đến Khung trình độ quốc gia(KTĐQG), TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến - cho rằng, đây là một công cụ quản lý giáo dục mới được đưa vào giáo dục thế giới khoảng 20 năm nay, gắn liền với xu thế phát triển nguồn nhân lực, gắn đào tạo với sử dụng và xây dựng hệ thống giáo dục mở,học tập suốt đời.
Nếu hệ thống giáo dục quốc dân (GDQD), kể cả hệ thống mô tả theo phân loại ISCED, tập trung vào các yếu tố đầu vào như nội dung chương trình và thời gian học tập thì KTĐQG tập trung vào kết quả học tập đầu ra, bất kể thời gian học, nơi học và cách học.
Vì thế, ngày nay, KTĐQG là công cụ cần thiết và không thể thiếu trong việc hoàn thiện HTGDQD trên phương diện thúc đẩy học tập suốt đời và gắn đào tạo với sử dụng.
"Với quan niệm như vậy, cần bổ sung vào Điều 4 một Khoản 3 như sau: "Chuẩn đầu ra của các trình độ đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân được quy định trong Khung trình độ quốc gia" - TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến góp ý.
Cho rằng, việc hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân gắn liền với hai khái niệm mới là giáo dục mở và KTĐQG, TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến - phân tích: Luật Giáo dục không có Điều về giải thích từ ngữ nên việc làm rõ và quy định chi tiết về hai khái niệm này cần được thể hiện trong Nghị định hướng dẫn thi hành Luật. Điều đó có nghĩa là cuối Điều 4 cần bổ sung Khoản 4 như sau: " Chính phủ quy định chi tiết về hệ thống giáo dục mở và KTĐQG".
Cũng theo TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến, việc xây dựng hệ thống giáo dục mở sẽ có tác động toàn hệ thống lên các yếu tố của giáo dục. Điều này sẽ được cụ thể hóa trong Nghị định hướng dẫn thi hành luật.
Tuy nhiên, trong phạm vi sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục cần xem xét ngay đến các quy định có liên quan đến văn bằng, giáo dục thường xuyên và quản lý nhà nước về giáo dục.
TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến: Việc xây dựng hệ thống giáo dục mở sẽ có tác động toàn hệ thống lên các yếu tố của giáo dục
Quy định về văn bằng hiện không còn phù hợp
TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến - cho biết: Hiện nay Điều 8 về văn bằng quy định như sau: "Văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân được cấp cho người học sau khi tốt nghiệp cấp học hoặc trình độ đào tạo theo quy định của Luật này".
Mà tốt nghiệp một trình độ đào tạo theo quy định của Luật GD hiện hành nghĩa là học hết chương trình của bậc trình độ đó, có đủ điều kiện thì được dự thi và nếu đạt yêu cầu thì được công nhận tốt nghiệp (xem các điều 37 và 43).
TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến - cho rằng, quy định này hiện không còn phù hợp. Trong quy định hiện nay về KTĐQG cũng đã thay đổi như sau: "Người học hoàn thành chương trình đào tạo, đáp ứng yêu cầu chuẩn đầu ra của bậc trình độ nào thì được cấp bằng của bậc trình độ đó".
Dự thảo 2 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học cũng đã sửa đổi lại quy định về văn bằng như sau: "Người học hoàn thành chương trình đào tạo, đạt chuẩn đầu ra của một trình độ đào tạo theo quy định, hoàn thành các nghĩa vụ, trách nhiệm của người học thì được hiệu trưởng cơ sở giáo dục đại học công nhận học vị và cấp bằng ở trình độ đào tạo tương ứng".
"Xét như vậy thì để đảm bảo tính nhất quán trong hệ thống pháp luật giáo dục, cần sửa lại câu đầu của Điều 8 như sau: "Văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân được cấp cho người học sau khi tốt nghiệp cấp học hoặc sau khi hoàn thành chương trình đào tạo, đạt chuẩn đầu ra của bậc trình độ theo quy định của Luật này". Cùng với việc sửa Điều 8, cần có việc sửa tương ứng các quy định của Điều 37 và 43" - TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến đề xuất .
Theo Giaoducthoidai.vn
Luyện thi đại học bằng trí tuệ nhân tạo ở Trung Quốc Nhiều công ty đang muốn đưa trí thông minh nhân tạo vào các lớp học, luyện thi để tăng cường hệ thống giáo dục hiện nay. AI có thể hỗ trợ học sinh tốt hơn giáo viên truyền thống. Ở Trung Quốc, phần lớn phụ huynh tin rằng vào được một trường đại học tốt là sự đảm bảo chắc chắn cho cuộc...