Hàng nghìn tỷ đồng và “giấc mơ” tiến sĩ
Từ năm 2000 đến nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD và ĐT) được giao chủ trì thực hiện nhiều đề án có kinh phí từ hàng trăm tỷ đồng đến hơn 10 nghìn tỷ đồng để đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có trình độ tiến sĩ.
Tuy nhiên, có những đề án nguồn kinh phí rất lớn, nhưng quá trình thực hiện đã không đạt mục tiêu đề ra; chất lượng đào tạo tiến sĩ còn nhiều bất cập. Mới đây, Bộ GD và ĐT xây dựng dự thảo đề án nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, giảng viên đại học và cao đẳng (ĐH, CĐ) sư phạm, giai đoạn từ năm 2018 đến 2025 và tầm nhìn 2030, đặt mục tiêu đào tạo 9.000 tiến sĩ với nguồn kinh phí 12 nghìn tỷ đồng khiến dư luận băn khoăn.
Giờ thực hành của nghiên cứu sinh tại một trường đại học (ảnh có tính minh họa). Ảnh: THANH GIANG
Bài 1 : Mục tiêu lớn, kinh phí nhiều, kết quả thấp
Đề án Đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường ĐH, CĐ giai đoạn 2010 – 2020 theo Quyết định 911/QĐ-TTg ngày 17-6-2010 của Thủ tướng Chính phủ (Đề án 911) có tổng kinh phí lớn nhất 14 nghìn tỷ đồng với mục tiêu đào tạo 23 nghìn tiến sĩ. Tuy nhiên, đề án triển khai đến hết năm 2016 đã bộc l.ộ hàn.g loạt hạn chế, không đạt mục tiêu đề ra, Bộ GD và ĐT đã dừng tuyển sinh từ năm nay.
Mười năm và mục tiêu 23 nghìn tiến sĩ
Video đang HOT
Theo tìm hiểu của chúng tôi, các chương trình, đề án có thực hiện nhiệm vụ đào tạo tiến sĩ được triển khai dưới nhiều hình thức khác nhau như: Đào tạo học bổng dạng hiệp định; lồng ghép đào tạo tiến sĩ trong đề án đào tạo nhân lực nói chung; đề án đào tạo riêng về tiến sĩ…; điển hình như các học bổng dạng hiệp định đào tạo ở nước ngoài tại LB Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hung-ga-ri… Đề án Đào tạo cán bộ khoa học, kỹ thuật tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước, theo Quyết định số 322/2000/QĐ-TTg (Đề án 322). Năm 2005, đề án nêu trên được đổi tên thành Đề án Đào tạo cán bộ tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước theo Quyết định 356/2005/QĐ-TTg (Đề án 356).
Đáng chú ý, năm 2010, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án 911 chỉ dành riêng đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường ĐH, CĐ, giao Bộ GD và ĐT chủ trì. Đề án có mục tiêu là trong giai đoạn 2010-2020 đào tạo khoảng 10 nghìn tiến sĩ ở nước ngoài tại các trường ĐH có uy tín trên thế giới (từ năm 2010 đến 2013, mỗi năm tuyển chọn từ 800 đến 1.200 và từ năm 2014 trở đi, bình quân mỗi năm tuyển chọn từ 1.300 đến 1.500 nghiên cứu sinh); đào tạo khoảng 3.000 tiến sĩ theo hình thức phối hợp, liên kết đào tạo giữa các trường ĐH trong nước và trường ĐH nước ngoài; đào tạo khoảng 10 nghìn tiến sĩ ở trong nước (từ năm 2010 đến 2015, mỗi năm tuyển chọn 1.200 đến 1.500 và từ năm 2016 bình quân mỗi năm tuyển chọn 1.500 nghiên cứu sinh)… Đối tượng tuyển chọn của đề án là giảng viên các trường ĐH, CĐ; nghiên cứu viên của các viện nghiên cứu khoa học; sinh viên mới tốt nghiệp ĐH hoặc thạc sĩ đạt từ loại khá trở lên; những người có năng lực và trình độ chuyên môn giỏi đang làm việc tại các đơn vị ngoài nhà trường, có nguyện vọng và cam kết trở thành giảng viên ĐH, CĐ sau khi được đào tạo (không quá 45 tuổ.i). Trong đó, ưu tiên đào tạo trình độ tiến sĩ đối với giảng viên các trường ĐH, nhất là các trường trọng điểm, xuất sắc… Tổng kinh phí thực hiện Đề án 911 dự kiến là 14 nghìn tỷ đồng; trong đó, đào tạo toàn phần ở nước ngoài chiếm khoảng 64%, đào tạo phối hợp chiếm khoảng 14%; đào tạo trong nước chiếm khoảng 20%, đào tạo ngoại ngữ và các kỹ năng khác ở trong nước chiếm khoảng 2%. Nguồn kinh phí thực hiện đề án gồm: Ngân sách nhà nước (94%); từ các dự án nước ngoài và nguồn xã hội hóa (5%); các nguồn kinh phí khác như học phí, đóng góp của các nhà trường (1%).
Đề án 911 ra đời với kỳ vọng tăng cường công tác đào tạo tiến sĩ cả về quy mô và chất lượng, nhằm nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, nghiên cứu, giảng dạy và quản lý ĐH tiên tiến của đội ngũ giảng viên; nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo tiến sĩ trong nước, tranh thủ và phát huy hợp tác quốc tế, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học của nước ta.
Kết quả thấp so với mục tiêu
Mặc dù Nhà nước tạo nhiều điều kiện, cấp tổng kinh phí lớn cho đào tạo tiến sĩ nhưng thực tế quá trình triển khai có nhiều hạn chế, kết quả còn xa so với kỳ vọng. Đến năm 2012, Bộ GD và ĐT mới có quyết định về tuyển sinh và ban hành thông tư đào tạo tiến sĩ theo Đề án 911. Bộ GD và ĐT cũng xác định, từ năm 2012 đến 2016 tổng chỉ tiêu đào tạo của đề án là 12.800 tiến sĩ (gồm 5.700 chỉ tiêu đào tạo trong nước, 5.800 chỉ tiêu đào tạo ở nước ngoài và 1.300 chỉ tiêu đào tạo phối hợp). Tuy nhiên, kết quả đạt được tính đến hết năm 2016 khá thấp. Cụ thể, giai đoạn 2012-2016, mới tuyển được 2.062 nghiên cứu sinh (NCS) đào tạo trong nước, đạt 36% chỉ tiêu. Trong đó, có 703 NCS đến thời hạn kết thúc thời gian nghiên cứu nhưng mới chỉ có 165 NCS hoàn thành khóa học, bảo vệ thành công luận án đúng thời hạn (đạt tỷ lệ hơn 23%); còn lại, có tới 538 NCS (gần 77%) bảo vệ luận án chậm hoặc chưa bảo vệ luận án. Trong số NCS được tuyển có 143 người bỏ học hoặc chuyển sang nghiên cứu đại trà.
Đối với công tác đào tạo phối hợp, chỉ có một NCS đang học tập nghiên cứu tại Pháp, trong số 1.300 chỉ tiêu của giai đoạn 2012-2016. Trong khi đó, từ năm 2012 đến hết năm 2016, có 2.926 người trúng tuyển đào tạo ở nước ngoài nhưng chỉ có 1.961 người (đạt gần 34% chỉ tiêu) được làm thủ tục đi học. Điều đáng nói, số tuyển sinh đào tạo ở nước ngoài nêu trên không phải hoàn toàn do Đề án 911 thực hiện, mà có 655 người thuộc danh sách do Đề án 356 tuyển vượt chỉ tiêu theo quy định chuyển sang. Vì vậy, kết quả tuyển sinh đào tạo ở nước ngoài của Đề án 911 thực chất chỉ có 1.306 NCS (gần 23% so với chỉ tiêu). Trong đó, có 549 NCS hoàn thành khóa học, bảo vệ thành công luận án (tốt nghiệp đúng thời hạn là 387 người, còn lại tốt nghiệp chậm từ một đến hai năm); 186 NCS hết thời hạn nghiên cứu nhưng chưa tốt nghiệp. Ngoài ra, có 45 NCS ở nước ngoài bỏ học.
Vấn đề sử dụng kinh phí triển khai Đề án 911 cũng có nhiều hạn chế. Báo cáo của Kiểm toán Nhà nước ban hành tháng 11 vừa qua cho thấy, tổng kinh phí đề nghị quyết toán của Đề án 911 giai đoạn 2012-2016 là hơn 1.400 tỷ đồng. Tuy nhiên, quá trình triển khai, kinh phí phân bổ qua các năm chưa phù hợp với nhiệm vụ chi, phải hủy dự toán hoặc phải chuyển năm sau để chi, làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn kinh phí. Bộ GD và ĐT chưa ban hành văn bản riêng, cụ thể về công tác kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng kinh phí đề án. Kiểm toán Nhà nước đã kiến nghị về xử lý tài chính đối với Bộ GD và ĐT, thu hồi nộp ngân sách Nhà nước gồm: Học phí của NCS tại Cục Hợp tác quốc tế (từ năm 2012 đến 30-7-2017) hơn 50 tỷ đồng; các khoản chi sai chế độ, không đúng quy định hơn 424 triệu đồng; thu hồi kinh phí do NCS bỏ học hơn 207 triệu đồng. Ngoài ra, Bộ GD và ĐT phải hủy dự toán nguồn kinh phí đề án hơn 2,8 tỷ đồng và giảm kinh phí quyết toán năm 2016 hơn 48 triệu đồng. Đối với các bộ, ngành kiểm tra đối chiếu tổng số xử lý tài chính là hơn 6,3 tỷ đồng.
Theo Kiểm toán Nhà nước, nguyên nhân khiến Đề án 911 không đạt mục tiêu đề ra được xác định là do các cơ chế, chính sách bất cập chậm được tháo gỡ, mức kinh phí hỗ trợ của đề án thấp, các nội dung chi và điều kiện để hỗ trợ kinh phí nhiều vướng mắc, trong khi yêu cầu trách nhiệm ràng buộc của NCS cao. Định mức hỗ trợ cho NCS thấp và có thêm quy định lưu học sinh phải nộp học phí khóa học 52 triệu đồng là điều bất cập. Một số chuyên gia giáo dục cho rằng, chương trình đào tạo tiến sĩ của Đề án 911 chưa có sự khác biệt so với các chương trình đào tạo đại trà (về giáo trình và thời gian thực tập tại nước ngoài, hình thức đào tạo, bằng tốt nghiệp). Đề án xây dựng không sát thực tế dẫn đến không thực hiện được mục tiêu. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Nhã, nguyên Trưởng ban Đào tạo (ĐH Quốc gia Hà Nội) cho rằng, quá trình triển khai Đề án 911 có sự cứng nhắc, thiếu linh hoạt, đặt ra tiêu chuẩn chưa phù hợp; những người thực hiện không tâm huyết, trách nhiệm với việc tìm kiếm lựa chọn người giỏi để tuyển sinh cho nên không đạt kết quả. “Cùng là đào tạo tiến sĩ nhưng có sự khập khiễng bởi tiêu chí xét tuyển của các đề án quá cao, trong khi đào tạo đại trà còn nhiều hạn chế, thậm chí có cả “tiến sĩ giấy”, dẫn đến các đề án chưa thật sự thu hút nhiều người theo học” – Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Nhã nhìn nhận.
Theo Nhandan.com.vn
Làm rõ khái niệm và đặc trưng mô hình "Công dân học tập"
Ngày 19/12, tại TP Việt Trì, Hội Khuyến học tỉnh Phú Thọ phối hợp với Sở GD&ĐT và Trường ĐH Hùng Vương tổ chức Tọa đàm với chủ đề: "Xây dựng mô hình "Công dân học tập tỉnh Phú Thọ".
Quang cảnh buổi tọa đàm
Dự và chỉ đạo buổi tọa đàm có các đồng chí: Hà Kế San - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ; GS.TS Phạm Tất Dong - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Khuyến học Việt Nam; Nguyễn Minh Tường - Giám đốc Sở GD&ĐT; Nguyễn Thị Kim Hải - Chủ tịch Hội khuyến học tỉnh Phú Thọ...
Phát biểu tại buổi tọa đàm, ông Hà Kế San - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ và GS.TS Phạm Tất Dong - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Khuyến học Việt Nam đán.h giá cao việc tổ chức buổi tọa đàm và cho rằng đây là việc làm rất cần thiết nhằm trao đổi kinh nghiệm để từng bước định hình hóa, lượng hóa, làm rõ khái niệm và đặc trưng của mô hình "Công dân học tập".
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ Hà Kế San phát biểu tại buổi tọa đàm
Từ đó rút ra những vấn đề về lý luận, thực tiễn quan trọng, sát với thực tế địa phương, giúp cho cấp ủy, chính quyền cùng với hệ thống chính trị tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, có chiều sâu, chất lượng các hoạt động GD&ĐT, hướng nghiệp dạy nghề; phát huy truyền thống hiếu học, khuyến học, khuyến tài, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công việc của từng công dân trong các lĩnh vực công tác; góp phần đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập trên địa bàn tỉnh.
Tham gia trao đổi, thảo luận tại buổi tọa đàm, các nhà khoa học, chuyên gia, cán bộ GD, khuyến học, mặt trận, quản lý doanh nghiệp... đã làm rõ những đặc trưng của mô hình "Công dân học tập", cơ sở lý luận, sự cần thiết phải xây dựng, ban hành bộ tiêu chí đán.h giá "Công dân học tập tỉnh Phú Thọ" và những giải pháp thực hiện bộ tiêu chí; tham gia đóng góp ý kiến vào các nội dung của bộ tiêu chí nhằm phản ánh đầy đủ bản chất của học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập, thể hiện rõ mối quan hệ mật thiết của các nhóm tiêu chí tạo nên mẫu hình "Công dân học tập" với những chỉ số đo lường cụ thể về năng lực, phẩm chất, phù hợp với điều kiện dân trí, dân sinh, văn hóa, phong tục tập quán của địa phương...
Kết luận buổi tọa đàm, Chủ tịch Hội Khuyến học tỉnh Nguyễn Thị Kim Hải đã tiếp thu ý kiến phát biểu của các đại biểu. Bà Hải mong muốn tiếp tục nhận được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, sự vào cuộc của MTTQ và các ban, ngành, đoàn thể đối với công tác khuyến học, khuyến tài của địa phương.
Các cấp, ngành, địa phương, đơn vị trong tỉnh tiếp tục nghiên cứu, đóng góp ý kiến bổ sung nhằm hoàn thiện bộ tiêu chí đán.h giá mô hình "Công dân học tập" của tỉnh; tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, khái niệm và những đặc trưng cơ bản của mô hình "Công dân học tập", qua đó nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và cộng đồng dân cư về vai trò, tầm quan trọng của việc học trong đời sống xã hội, đặc biệt là nâng cao ý thức tự học, tự bồi dưỡng, học thường xuyên, học suốt đời trong mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng, đơn vị và trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động...
Theo Giaoducthoidai.vn
Toàn ngành giáo dục hiện có 4.687 giáo sư và phó giáo sư Theo con số thống kê mới nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo, toàn ngành giáo dục hiện có 574 giáo sư và 4.113 phó giáo sư. Về đội ngũ giảng viên Năm học 2016-2017, tổng số cơ sở giáo dục đại học ở nước ta là 235, số lượng giảng viên trong các cơ sở giáo dục đại học là 72.792...