GS Trần Văn Nhung: Học tiếng Anh trong nước không khá được
Theo GS Trần Văn Nhung, sau nhiều lần tự học tiếng Anh trong nước, ông vẫn chưa tự tin và không khá lên được.
Mới đây, GS Trần Văn Nhung – nguyên Thứ trưởng GD&ĐT, Tổng thư ý Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước – chia sẻ bức thư gửi Bộ Chính trị về việc đề xuất dạy và học tiếng Anh.
GS Nhung cho biết bài viết được đăng tải trong bối cảnh chủ trương học ngoại ngữ đang được bàn luận sôi nổi.
Tiếng Anh phải là ngoại ngữ thứ nhất
“Tôi xin đề nghị Bộ Chính trị và Ban Bí thư xem xét, nghiên cứu để sớm có được một chỉ thị hay nghị quyết để tăng cường việc dạy, học và sử dụng tiếng Anh ở Việt Nam, tương tự như Chỉ thị 58-CT/TW năm 2000 của Bộ Chính trị và Nghị quyết 36-NQ/TW năm 2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển Công nghệ Thông tin”, GS Trần Văn Nhung viết.
Là nhà giáo, ông nói từng tự học tiếng Anh ở trong nước nhưng kết quả là “rất khó khăn, không tự tin và không thể khá lên được”.
Từ nhìn nhận thực tế, việc sử dụng tiếng Anh của người Việt trở thành rào cản không nhỏ với tốc độ hội nhập quốc tế, xây dựng và phát triển đất nước, GS Nhung đưa ra công thức trong thời kỳ toàn cầu hóa: Công nghệ thông tin tiếng Anh bộ óc tốt = tất cả.
Theo GS Trần Văn Nhung, việc cấp thiết cần làm cho tốt là đề án “Dạy và học ngoại ngữ từ năm 2008-2020″.
Trong đó, nhấn mạnh vai trò của tiếng Anh không nên quên các ngoại ngữ khác. Nhưng ngày nay, những công dân toàn cầu phải sử dụng tối ưu thời gian sống và làm việc của họ.
Vì vậy, theo GS Nhung, tiếng Anh phải là ngoại ngữ thứ nhất, cần được chú trọng, sau đó mới đến các thứ tiếng quốc tế khác. Nhiều nước cũng coi tiếng Anh là ngoại ngữ số một.
GS Trần Văn Nhung. Ảnh: NVCC.
Bài học từ Singapore và Malaysia
Trong thư, GS Trần Văn Nhung tập trung phân tích để tham khảo và so sánh cách học tiếng Anh của Singapore và Malaysia.
Video đang HOT
Đối với Singapore, ông Lý Quang Diệu đã đưa quốc gia này từ một làng chài nghèo phát triển vượt bậc trong thời gian ngắn. Lý do, Thủ tướng Lý Quang Diệu ngay từ đầu đã xác định không có tài nguyên, đất nước phải đi lên bằng cái đầu, nguồn nhân lực và tài năng.
Trong đó, tiếng Anh được chú trọng phát triển. Singapore có ba nhóm người chính là Hoa, Ấn Độ và Mã Lai. Họ vẫn duy trì tiếng nói, văn hoá và bản sắc của mình nhưng ngôn ngữ chính thức được sử dụng chung trong hành chính và giáo dục là tiếng Anh.
“Trong suốt 20 năm đầu mới thành lập nhà nước Singapore, ông Lý Quang Diệu chỉ đạo Bộ Giáo dục nước này dùng luôn sách giáo khoa phổ thông của nước Anh, nhất là đối với các môn khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ. Đây có lẽ là cách nhanh, khoa học, tiết kiệm nhất để hiện đại hóa nền giáo dục”, ông Nhung phân tích.
Những trường đại học hàng đầu của Singapore như NUS hay NTU cũng sử dụng luôn sách giáo khoa và sách tham khảo, áp dụng việc thi cử từ các trường ĐH hàng đầu thế giới như: Harvard, MIT (của Mỹ) và Cambridge, Oxford (của Anh).
Thủ tướng Lý Quang Diệu đã tổng kết bài học của Singapore: “Chỉ có một cách để không bị tụt hậu là phải giỏi tiếng Anh. Việc lựa chọn tiếng Anh đóng vai trò như ngôn ngữ làm việc, giúp ngăn chặn nảy sinh xung đột sắc tộc, đem lại ưu thế cạnh tranh”.
“Hiện nay, trên 20% số sinh viên trên đất Singapore là người nước ngoài. Họ đến đây học tự túc hoặc có học bổng. Nhưng sau khi tốt nghiệp, có bằng thạc sĩ hoặc tiến sĩ, họ ở lại làm việc cho Singapore để trả nợ. Như vậy, họ không chỉ biết khai thác trí tuệ của 5 hay 6 triệu người của mình mà cả hàng triệu người nước ngoài”, GS Nhung dẫn chứng.
Ông cũng kể lại câu chuyện của Malaysia chủ trương dùng tiếng Malay là chủ yếu. Kết quả, nhiều học sinh, sinh viên nước này bỏ ra nước ngoài học, khiến mỗi năm bị chảy máu ngoại tệ nhiều tỷ USD và chất lượng đại học đi xuống.
Cách đây ít năm, sau 22 năm làm thủ tướng, ông Mahathir Mohamad đã rút ra bài học kinh nghiệm đắt giá về giáo dục. Ông yêu cầu mọi người Mã Lai hãy trở lại với tiếng Anh và cá nhân ông gương mẫu học trước.
Theo Zing
Xem xét kỹ việc học hàng loạt ngoại ngữ
Bộ GD&ĐT đưa cùng lúc quá nhiều ngoại ngữ vào chương trình phổ thông sẽ thêm gánh nặng, trong khi việc đào tạo tiếng Anh vẫn chưa hiệu quả.
Bộ GD&ĐT cho biết sẽ xây dựng chương trình giáo dục phổ thông môn tiếng Nga, tiếng Trung Quốc hệ 10 năm trở thành ngoại ngữ thứ nhất, bắt đầu từ lớp 3 theo khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam.
Ngoài ra, các ngoại ngữ thứ hai mà Bộ GD&ĐT dự kiến đưa vào trường học bao gồm tiếng Hàn, tiếng Pháp, tiếng Đức. Những nội dung này tạo nên nhiều ý kiến trái chiều.
Không thể đại trà
TS Nguyễn Thị Hằng, phụ trách Khoa tiếng Nga của ĐH Sư phạm TP.HCM, cho biết hiện nhu cầu về tiếng Nga vẫn còn rất nhiều nhưng trình độ nhân sự chúng ta chưa đáp ứng được.
Giảng viên này cho rằng phụ huynh lo lắng việc đào tạo đại trà tiếng Nga, tiếng Trung cho con mình cũng có lý vì hiện nay, nhìn bề nổi thì thấy nhu cầu không nhiều. Tuy nhiên, nếu được đào tạo, hướng đi đúng đắn từ nhỏ, lớn lên các em sẽ có sự đam mê, chắc chắn người học sẽ có việc, đặc biệt trong lĩnh vực thủy hải sản, du lịch hiện nước ta rất cần nhân lực giỏi tiếng Nga.
"Chủ trương là vậy nhưng việc thực thi như thế nào cần xem xét kỹ lưỡng. Nơi nào có nhu cầu, có điều kiện thì mới áp dụng chứ không phải đại trà được", bà Hằng nêu quan điểm.
Theo TS Châu A Phí, Phó trưởng Khoa tiếng Trung ĐH Sư phạm TP.HCM, ngoại ngữ thường được lựa chọn theo sự phát triển kinh tế của đất nước. Do đó, phụ huynh quan tâm việc học ngoại ngữ có ứng dụng được hay không, đi làm được hay không, có nhiều môi trường làm việc hay không là hoàn toàn chính đáng.
Ông Phí cho rằng muốn có những nhân lực tiếng Trung nói riêng và các ngoại ngữ khác nói chung thực sự tốt, phải có sự đào tạo từ cấp dưới đi lên. Nếu có nền vững chắc từ dưới đi lên sẽ có những chuyên gia dịch thuật, chuyên viên dịch cao cấp giỏi. Lên ĐH mới chọn ngoại ngữ để đào tạo thì sinh viên ra trường vẫn đi làm được nhưng đạt mức xuất sắc thì khoảng cách còn xa.
"Muốn có những nhân tài giỏi ở các loại ngoại ngữ, phải ươm mầm từ cấp thấp. Tuy nhiên, cần chuẩn hóa đội ngũ giảng viên vì nếu không chuẩn, không tốt sẽ đào tạo "hư cả một thế hệ", phí phạm tiền của. Ngoài ra, cần chú trọng các yếu tố khác như giáo trình, cơ sở vật chất...", ông Châu A Phí nhấn mạnh.
Học sinh tại TP HCM trong giờ học tiếng Anh. Ảnh: Tấn Thạnh/Người Lao Động.
Học sinh khó kham nổi
GS.TS.NGND Bùi Khánh Thế, nguyên Phó hiệu trưởng ĐH Ngoại ngữ - Tin học TP.HCM, cho biết trong bối cảnh xã hội hiện nay, sinh viên, trí thức nước ta trước hết phải học tiếng mẹ đẻ thật tốt, sau đó chọn ngoại ngữ nào cần thiết nhất cho hoạt động khoa học, phục vụ đất nước hiện nay làm ngoại ngữ chính.
"Ngày xưa, tôi có học tiếng Nga nhưng đó là giai đoạn sau năm 1954, lúc bấy giờ ngôn ngữ này rất cần cho xã hội. Tuy nhiên, tình hình xã hội hiện nay đã thay đổi, tiếng Anh trở thành ngôn ngữ có tính chất toàn cầu, công cụ giao tiếp", GS Thế nói.
Theo GS Thế, học sinh hiện nay được học quá nhiều môn, các em không có thời gian để học quá nhiều ngoại ngữ. Nếu đưa cả tiếng Nga, tiếng Trung, cả học sinh phổ thông cũng như sinh viên sẽ không kham nổi.
"Mỗi giai đoạn lịch sử có một nhu cầu về ngoại ngữ khác nhau. Đất nước vẫn có nhu cầu nhất định về nhân lực biết các ngoại ngữ ngoài tiếng Anh nhưng chỉ nên tập trung đào tạo thật tốt một đội ngũ nhất định, không nên đưa vào dạy học đại trà. Tôi nghĩ hiện giờ Bộ GD&ĐT nên tập trung đào tạo thật tốt tiếng Anh", GS Thế đề nghị.
Một chuyên gia khác cũng cho biết học tiếng Trung, tiếng Nga không phải là không tốt nhưng chỉ nên là ngoại ngữ 2. Nếu lấy 2 thứ tiếng này làm ngoại ngữ thứ nhất thì học sinh sẽ phải học thêm tiếng Anh, như thế lại chất thêm gánh nặng cho trẻ em.
Phát biểu trên trang cá nhân, GS.TS Trần Đình Sử cũng nêu quan điểm tiếng Anh là ngôn ngữ có tính ứng dụng quốc tế, giúp người Việt có thể đi lao động nhiều nước, đọc được các văn bản văn học, khoa học có giá trị nhất.
"Hiện tiếng Anh gắn với các nước tiên tiến về công nghiệp, dịch vụ, y tế, giáo dục. Còn tiếng Trung chỉ đơn thuần là ngôn ngữ của một nước lớn. Tôi đề nghị chủ trương này phải đem thảo luận ở Quốc hội, sau đó mới thi hành vì dạy ngoại ngữ là một vấn đề quốc sách", ông Sử viết.
Quá tham vọng, ôm đồm!
Việc đưa hàng loạt ngoại ngữ vào trường học của Bộ GD&ĐT ngay lập tức đã nhận được nhiều ý kiến phản hồi của các chuyên gia cũng như phụ huynh học sinh.
Một chuyên gia của ĐH Quốc gia Hà Nội băn khoăn nguồn lực giáo viên hiện có đáp ứng đủ cho việc triển khai nhiều ngoại ngữ cùng lúc?
"Trên thực tế, nhiều địa phương triển khai dạy tiếng Anh còn nhiều bất cập do thiếu giáo viên hoặc giáo viên còn chưa đạt chuẩn. Mở ra nhiều ngoại ngữ chắc chắn sẽ gây khó khăn cho việc tìm kiếm đội ngũ giáo viên khi nhiều trường từ lâu đã bỏ tiếng Nga và giáo viên lại phải chuyển sang học tiếng Anh để hợp xu thế", chuyên gia này nói.
Giám đốc một trung tâm tiếng Anh đóng tại quận Ba Đình, Hà Nội cũng cho rằng đội ngũ giáo viên tiếng Anh dù đã được đào tạo nhiều nhưng vẫn chưa đạt chuẩn. Trong khi đó, giáo viên tiếng Nhật, tiếng Trung không nhiều, nếu không muốn nói là rất thiếu. Việc giảng dạy các ngoại ngữ này "không chuẩn" sẽ ảnh hưởng nhiều đến học sinh tiểu học.
Một chuyên gia phân tích để đưa tiếng Trung, tiếng Nga vào giảng dạy chương trình chính thức, cần phải có đội ngũ giáo viên được đào tạo bài bản. Liệu ngành giáo dục có thể làm tốt việc này khi giáo viên tiếng Anh đạt chuẩn hiện vẫn còn rất "khan hiếm"?
"Tôi thấy Bộ GD&ĐT quá tham vọng và ôm đồm. Liệu khi đưa ra kế hoạch này, Bộ GD&ĐT đã tính toán kỹ đến việc đào tạo giáo viên, giáo trình - sách giáo khoa để triển khai đến các trường ngay trong năm học tới?", chuyên gia này đặt vấn đề.
Ông Nguyễn Quốc Hùng, nguyên Phó hiệu trưởng ĐH Ngoại ngữ Hà Nội, cũng thừa nhận Đề án Ngoại ngữ 2020 đã đặt ra mục tiêu quá cao, chưa tính được tính khả thi, việc đưa tiếng Anh ở nước ta từ nền tảng thấp trong giáo dục (kết quả thi phổ thông rất kém) thành ngôn ngữ thứ 2 sẽ gian truân và đòi hỏi thời gian dài.
Theo ông Hùng, một xã hội hiện đại cần phát triển nhiều thứ tiếng, tiếng Anh đứng ở vị trí ngôn ngữ thứ hai, nghĩa là cao nhất, chỉ sau tiếng mẹ đẻ. Chuyên gia này cũng nhấn mạnh mỗi học sinh không phải bắt buộc học 3-4 thứ tiếng trong nhà trường mà chỉ bắt buộc tiếng Anh, còn các thứ tiếng khác là tự chọn, ai muốn học gì thì học thêm. Đó là mối quan hệ giữa "tạo điều kiện và nhu cầu xã hội". Như vậy, không phải nhà trường nào cũng phải dạy nhiều ngoại ngữ cùng một lúc.
Theo một giảng viên sư phạm, để đào tạo ra một lứa giáo viên giảng dạy tiếng Nga hay tiếng Trung cần ít nhất từ 4-5 năm nên sẽ khó khăn nếu vội vàng áp dụng. Do đó, Bộ GD&ĐT tốt nhất nên tập trung đào tạo tiếng Anh cho học sinh thật tốt ở giai đoạn này.
Ngoài tiếng Anh mang tính chất phổ biến như một công cụ giao tiếp quốc tế, các ngoại ngữ khác như tiếng Nga, tiếng Trung hay tiếng Hàn, tiếng Nhật chỉ nên coi là ngoại ngữ thứ hai tự chọn, không bắt buộc.
Theo Lê Thoa - Yến Anh / Người lao động
Bộ GD&ĐT trả lời về dạy tiếng Nga, Trung Quốc từ lớp 3 Tối 22/9, Bộ GD&ĐT có văn bản giải đáp thắc mắc của dư luận liên quan dạy tiếng Nga, tiếng Trung Quốc trong trường phổ thông. Mới đây, thông tin từ hội nghị trực tuyến về Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân do Bộ GD&ĐT tổ chức cho biết lộ trình: Đưa tiếng Nga, tiếng...