Google tự xây dựng bộ vi xử lý smartphone riêng
Đây là ví dụ mới về việc một công ty Big Tech tự sản xuất chip của riêng mình thay vì dựa vào nhà sản xuất chip truyền thống như Qualcomm hoặc Intel.
Google Tensor
Theo CNBC, Google hôm 2.8 công bố sẽ xây dựng bộ xử lý điện thoại thông minh riêng gọi là Google Tensor, để cung cấp năng lượng cho dòng điện thoại hàng đầu Pixel 6 và Pixel 6 Pro mới dự kiến ra mắt vào mùa thu này. Đây là sự thay đổi chiến lược của Google. Nó cũng cho thấy hãng công nghệ Mỹ một lần nữa đang cố gắng cạnh tranh trực tiếp về vị trí hàng đầu với Samsung và Apple.
Thông báo trên cũng là dấu hiệu ngầm hiểu Google đang dần “chia tay” nhà sản xuất chip Qualcomm. Tuy nhiên, Qualcomm cho biết sẽ tiếp tục hợp tác chặt chẽ với Google trên các sản phẩm hiện tại và tương lai dựa trên nền tảng Snapdragon.
Google Tensor là tên gọi được lấy theo tên của Đơn vị xử lý Tensor (Tensor Processing Unit) mà công ty sử dụng cho điện toán đám mây. Đó là một hệ thống đầy đủ trên chip, mà theo Google thì nó sẽ cung cấp những cải tiến lớn cho quá trình xử lý ảnh và video trên điện thoại, cùng với các tính năng như chuyển giọng nói và dịch thuật. Nó còn bao gồm một bộ xử lý chuyên dụng chạy các ứng dụng trí tuệ nhân tạo, CPU, GPU và bộ xử lý tín hiệu hình ảnh. Nó sẽ cho phép điện thoại xử lý nhiều thông tin hơn trên thiết bị thay vì phải gửi dữ liệu lên đám mây.
“Vấn đề với Pixel là chúng tôi đi vào giới hạn với các giải pháp công nghệ hiện có và thật khó để đưa những thứ tiên tiến nhất của chúng tôi từ các nhóm nghiên cứu vào điện thoại. Bộ vi xử lý mới sẽ thực sự biến đổi những gì chúng tôi có thể làm trên điện thoại bằng học máy và trí tuệ nhân tạo”, Rick Osterloh, người đứng đầu bộ phận phần cứng của Google, nói với CNBC.
Ông Osterloh cho biết chip mới sẽ giúp điện thoại của Google chụp ảnh và quay video tốt hơn. Điện thoại Pixel của Google đã chụp được một số bức ảnh đẹp nhất so với bất kỳ điện thoại nào trên thị trường, vì vậy đó có thể là một lời khẳng định lớn. Trong một bản demo tiết lộ với CNBC, ông Osterloh đã chỉ ra một ví dụ về cách chip mới có thể giúp giảm hiện tượng nhòe khi đối tượng di chuyển trong khi người dùng đang chụp ảnh.
Công nghệ tương tự mà Google sử dụng để cải thiện hình ảnh còn được dùng để cải thiện video, điều mà ông Osterloh nói rằng không thể thực hiện được với các loại chip khác. Ông Osterloh cũng đưa ra các ví dụ khác, chẳng hạn như chuyển văn bản thành giọng nói nhanh hơn và chính xác hơn khi người dùng đang nói một tin nhắn văn bản và bản dịch ngoại tuyến mới cho phụ đề cho video.
Đó là những ví dụ rõ ràng về sức mạnh của bộ chip mới, nhưng chúng có thể vẫn không đủ để khiến mọi người chọn mua Pixel thay vì iPhone hoặc Samsung Galaxy. Và đây là vấn đề mà Google thực sự cần giải quyết: thu hút mọi người mua Pixel ngay từ đầu. Những chiếc điện thoại trước đây của công ty rất tuyệt, nhưng Google chưa làm đủ hoạt động tiếp thị để khiến người tiêu dùng biết rằng chúng tồn tại hoặc chúng tốt. Các nhà mạng lớn của Mỹ thậm chí còn không cung cấp điện thoại của Google.
Hiện không rõ liệu lần này Google có cải thiện vấn đề tiếp thị hay không. Nhưng ông Osterloh cho biết Google sẽ sản xuất nhiều điện thoại hàng đầu hơn và người dùng có thể mong đợi một sự thúc đẩy tiếp thị lớn cho Pixel 6 và Pixel 6 Pro vào mùa thu.
Video đang HOT
Được biết, Apple cũng là công ty dùng bộ vi xử lý của riêng mình trong các máy tính mới thay vì chip của Intel. Giống như Apple, Google đang sử dụng kiến trúc ARM. Bộ xử lý ARM có công suất thấp hơn và được sử dụng trong toàn ngành cho các thiết bị di động, từ điện thoại thông minh đến máy tính bảng và máy tính xách tay.
Big Tech chia rẽ vì quy định quay lại văn phòng
Trong khi một số công ty công nghệ như Twitter, Google cho phép nhân viên tiếp tục làm việc từ xa, Apple thông báo người lao động sẽ đến văn phòng từ tháng 9.
Đại dịch Covid-19 đã buộc các công ty công nghệ chuyển lực lượng lao động tại văn phòng sang làm việc từ xa trong nhiều tháng liên tục. Vì nhiều người trong số họ đang sống ở những khu vực có tỷ lệ tiêm chủng cao, không ít công ty đã ra thông báo về kế hoạch quay lại văn phòng vào mùa hè này.
Tuy nhiên, không phải ai cũng thích thú với thông tin đó. Nhiều người không muốn quay lại văn phòng làm toàn thời gian, ngay cả khi họ có thể làm vậy vài ngày một tuần. Người lao động thậm chí còn chỉ ra mức độ làm việc hiệu quả khi làm việc từ xa và sử dụng nó để đặt câu hỏi tại sao họ phải sống ở những thành phố đắt đỏ, nơi đặt các văn phòng này.
Một số nhà lãnh đạo công nghệ, như Jack Dorsey của Twitter, nhất trí với mong muốn này. Không ít công ty đã ban hành các thay đổi vĩnh viễn hoặc tạm thời đối với các chính sách làm việc từ xa một phần hoặc thậm chí toàn thời gian trở thành tiêu chuẩn. Những lãnh đạo khác, như Tim Cook của Apple, ngược lại đang nỗ lực tìm cách đưa nhân viên trở lại văn phòng càng sớm càng tốt, bất chấp sự phản kháng có tổ chức.
Khu văn phòng của Apple ở Bắc California.
Không phải xu hướng mới
Viễn cảnh về một tương lai làm việc tại nhà từ lâu đã được rao giảng bởi các nhà quản lý tận tâm ở Thung lũng Silicon và các trung tâm khởi nghiệp công nghệ khác. Những người có ảnh hưởng, nhà văn và chuyên gia tư vấn kinh doanh trong nhiều năm đã dự đoán rằng, nhờ công nghệ, làm việc trực tiếp tại văn phòng sẽ là dĩ vãng.
Những người ủng hộ lập luận rằng không có lý do rõ ràng nào để phản đối làm việc từ xa bên cạnh một số lo ngại về kiểm soát quản lý. Và để chứng minh cho lập luận này, họ chỉ ra các nghiên cứu cho thấy một số nhân viên trong một số loại hình công việc nhất định cảm thấy vui vẻ và năng suất hơn khi làm việc từ xa. Các nghiên cứu cũng loại bỏ giả định rằng năng suất luôn thấp hơn khi làm việc từ xa là băt buộc.
Phong trào làm việc online tại nhà trở thành "cơn sốt" vào cuối những năm 2000, khi sự lạc quan về công nghệ đang lan rộng khắp thế giới và một số giám đốc trong làn sóng khởi nghiệp mới dường như rất thích ý tưởng này. Tuy nhiên, làm việc từ xa đã phải đối mặt với những thất bại đáng kể. Đáng chú ý là Yahoo vào đầu những năm 2010 đã yêu cầu tất cả nhân viên làm việc từ xa phải đến văn phòng và xuất hiện tại bàn làm việc được chỉ định.
Kể từ đó, phong trào làm việc từ xa rơi vào trầm lắng.
Các công ty như Google hoặc Twitter từng cho phép nhân viên làm việc tại nhà theo định kỳ khi có nhu cầu, ví dụ: chăm sóc con ốm hoặc thậm chí để cải thiện sức khỏe tâm thần. Nhưng trong hầu hết các trường hợp, văn hóa công ty quy định người lao động không nên làm việc từ xa quá thường xuyên. Làm việc từ xa là một đặc quyền, không phải là một nghĩa vụ và nhân viên thường không thể di chuyển ra khỏi phạm thành phố nơi các công ty này đặt trụ sở.
Khi giá nhà đất tăng chóng mặt và tình trạng tắc nghẽn giao thông ngày càng trở nên tồi tệ ở các thành phố như San Francisco, Seattle, Los Angeles và Austin, các nhà bình luận nổi tiếng nói rằng: "Có thể một số những vấn đề này sẽ được giảm bớt nếu các nhà lãnh đạo doanh nghiệp cởi mở hơn với công việc từ xa. Nhưng tầm nhìn cấp tiến về phong trào này dường như đã chết".
Và rồi đại dịch xảy ra.
Từ đặc quyền thành nghĩa vụ
Các công ty, trước kia từng tuyên bố làm việc từ xa sẽ không bao giờ hiệu quả, giờ không còn lựa chọn nào khác. Trong các doanh nghiệp truyền thống, phong trào chuyển đổi số diễn ra nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu. Và ở một số công ty khởi nghiệp công nghệ, quá trình chuyển đổi diễn ra liền mạch đến mức nhiều nhân viên tự hỏi tại sao tất cả những điều này chưa được thử trước đây.
Tất nhiên, vẫn có những ngoại lệ ở một số ngành nghề cụ thể. Ví dụ, các studio phát triển game lớn đã phải vật lộn để duy trì mức năng suất trước đây theo cách làm việc từ xa mới, dẫn đến sự chậm trễ hoặc giảm chất lượng đối với một số bản phát hành.
Giữa mối đe dọa của đại dịch ở các thành phố đông đúc và giá nhà ở cao ngất ngưởng ở các trung tâm công nghệ, nhiều người lao động gần đây bắt đầu lên kế hoạch di cư khỏi Vùng Vịnh để tận hưởng đồng cỏ xanh, sinh hoạt phí rẻ hơn, nhưng với hy vọng vẫn có thể giữ được mức lương cao.
Theo dữ liệu của Glassdoor, mức lương trung bình của kỹ sư phần mềm tại "điểm nóng" công nghệ cao San Jose, California, là 137.907 USD. Con số đó thậm chí không đủ để thực hiện hóa giấc mơ Mỹ ở Vùng Vịnh. Nhưng nếu kỹ sư đó chuyển đến St. Louis hoặc Tucson với cùng mức lương, anh ấy có thể sống như hoàng gia.
Nội bộ Apple chia rẽ
Rất ít công ty công nghệ xảy ra tranh cãi về vấn đề làm việc từ xa nhiều như Apple. Mặc dù nhân viên tại trụ sở chính Cupertino và các nơi khác chủ yếu làm việc tại nhà trong suốt phần lớn năm 2020, CEO Tim Cook đã gửi email cho nhân viên vào đầu tháng 6 cho biết một thay đổi chính sách sắp diễn ra.
Nhân viên sẽ được yêu cầu trở lại văn phòng ít nhất ba ngày mỗi tuần bắt đầu từ tháng 9. Họ vẫn có thể hoàn toàn làm việc từ xa trong tối đa hai tuần mỗi năm, miễn là thông báo và được sự chấp thuận của ban quản lý.
Các nhân viên sau đó đã thực hiện một cuộc khảo sát nội bộ với kết quả khác xa mong muốn của Cook. Theo báo cáo của The Verge , 99% trong số 1.749 người được hỏi cho biết họ "hoàn toàn đồng ý" rằng "các lựa chọn làm việc linh hoạt theo vị trí là một vấn đề rất quan trọng đối với tôi." Các nhân viên đã viết một lá thư cho Cook yêu cầu ông suy nghĩ lại về chính sách mới. 68% đồng ý rằng "sự thiếu linh hoạt về công việc có thể sẽ khiến họ rời khỏi Apple".
Các giám đốc điều hành của Apple đã không lùi bước trước kế hoạch của họ. Sự thay đổi đã dẫn đến xáo trộn trong ngành công nghiệp khổng lồ, với các nhân viên lâu năm cam kết nghỉ việc sau khi bắt buộc phải quay lại văn phòng. Một số người lao động tiết lộ ban lãnh đạo Apple đã bắt đầu từ chối các yêu cầu làm việc từ xa nhiều hơn mức bình thường.
Một số nhân viên khác của Apple đã viết thư đề nghị các chính sách làm việc từ xa thoáng hơn để đổi lấy một giải pháp rằng nhân viên ở các thành phố có chi phí sinh hoạt thấp hơn sẽ chấp nhận mức lương thấp hơn tương ứng. Tuy nhiên, đề xuất này vẫn khiến các nhân viên khác tức giận, những người này cho rằng Apple có thể đủ khả năng trả cho họ một mức lương cạnh tranh bất kể nơi họ chọn chuyển đến sau đại dịch.
Trì hoãn vì biến thể delta
Nhưng giờ đây, cuộc chiến làm việc từ xa tại các công ty như Apple có vẻ sẽ còn kéo dài. Sự lạc quan ban đầu của mùa hè về khả năng trở lại bình thường đã giảm dần trong toàn ngành. Trước sự lây lan nhanh chóng của biến thể delta và một lượng lớn người dân chưa được tiêm chủng, bang California đã tái áp đặt khuyến nghị đeo khẩu trang trong nhà ngay cả đối với cả những người đã được tiêm chủng, bởi vì các nghiên cứu đã chỉ ra rằng ngay cả những người được tiêm phòng có vẻ khỏe mạnh cũng có thể lây lan chủng delta chết người cho những người dễ bị tổn thương chưa được tiêm chủng. Sự thay đổi của California ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều công ty công nghệ.
Apple đã thúc đẩy kế hoạch trở lại văn phòng của mình trong bối cảnh bất ổn nội bộ và những lo ngại về sức khỏe ngày càng gia tăng. Khung thời gian được cho là đã chuyển từ tháng 9 sang tháng 10 và khả năng cao sẽ bị lùi lại xa hơn nữa.
Tuần này, Twitter cũng thông báo sẽ đóng cửa các văn phòng ở Mỹ từng được mở lại một phần gần đây. Trong khi đó, Google mở rộng chính sách làm việc tại nhà hiện tại của mình đến giữa tháng 10 và Lyft hoãn kế hoạch trở lại văn phòng cho đến hết tháng 2 năm sau.
Ngoài ra, một số công ty công nghệ lớn đang yêu cầu một số hoặc tất cả nhân viên phải tiêm phòng để trở lại văn phòng, bao gồm Lyft, Google và Facebook. Và ngay cả ở những công ty chưa công bố bất kỳ yêu cầu tiêm chủng nào, như Apple, nhân viên cũng được yêu cầu điền vào đơn khảo sát tình trạng tiêm chủng.
Những công ty khác như Microsoft đang thúc đẩy nhân viên trở lại, bất chấp những cảnh báo về nguy cơ dịch bệnh. Mặc dù vậy, Microsoft nhìn chung đã chủ động hơn Apple trong việc hỗ trợ người lao động hình thức làm việc kết hợp về lâu dài.
Big Tech đang hứng chịu các vụ kiện và điều tra nào của Mỹ? Các gã khổng lồ công nghệ (Big Tech) như Google, Facebook, Apple và Amazon đã phải hứng chịu một loạt các vụ kiện chống độc quyền của chính phủ Mỹ và các tiểu bang với cáo buộc họ đang vận hành độc quyền và lạm dụng quyền lực của mình. Dưới đây là tình trạng của các vụ kiện cũng như các cuộc...