Gói hỗ trợ lần 2: Doanh nghiệp mong gỡ “nút thắt” ở điều kiện thụ hưởng
Theo các doanh nghiệp, ở gói hỗ trợ kinh tế lần 2 những điều kiện thụ hưởng cần sát thực tế hơn và có thể kéo dài thời hạn ít nhất đến hết năm 2021…
Ảnh minh họa.
Trong khi các gói hỗ trợ lần thứ nhất chưa phát huy hết tác dụng, các doanh nghiệp cho rằng, ở gói hỗ trợ lần 2 cần phải gỡ “nút thắt” chính là điều kiện thụ hưởng để doanh nghiệp thực sự tiếp cận được.
ĐIỀU KIỆN THỤ HƯỞNG LÀ “NÚT THẮT” CẦN GỠ?
Sự tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 đến nền kinh tế cũng như thị trường lao động được dự báo là vẫn còn đang tiếp diễn. Theo kết quả điều tra lao động việc làm quý 1/2021 của Tổng cục Thống kê công bố cuối tuần qua đã ghi nhận số người tham gia thị trường lao động giảm so với quý trước và cùng kỳ năm trước.
Trong quy 1, cả nước vân con 9,1 triệu người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch Covid-19, bao gồm bị mất việc, phải tạm nghỉ/tạm ngừng sản xuất kinh doanh; bị cắt giảm giờ làm hoặc buộc phải nghỉ giãn việc, nghỉ luân phiên và giảm thu nhập.
Những con số thống kê về tình hình lao động việc làm quý 1 đã phản ánh khó khăn và biến động của nền kinh tế nói chung và thị trường lao động Việt Nam nói riêng. Vì vậy, Tổng cục Thống kê cho rằng thời gian tới cần tiếp tục tập trung tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp sản xuất, cải cách thủ tục để doanh nghiệp tiếp cận các chính sách hỗ trợ thuận tiện nhằm kích thích nền kinh tế cũng như nhu cầu sử dụng lao động.
Video đang HOT
Trao đổi với VnEconomy, bà Phan Thị Thanh Xuân, Tổng thư ký Hiệp hội Da – Giày – Túi xách Việt Nam cho rằng, tất cả những nội dung hỗ trợ đưa ra ở gói thứ nhất là rất phù hợp, đặc biệt là một số chính sách như giảm tiền thuê đất, miễn giảm lãi vay, cơ cấu lại thời gian trả nợ, gia hạn thời gian nộp tiền vào quỹ hưu trí và tử tuất…Do đó nếu vẫn được áp dụng ở gói lần 2 thì rất tốt, tuy nhiên điều quan trọng nhất phải rút kinh nghiệm chính là điều kiện thụ hưởng cần sát với thực tế hơn.
Theo bà Xuân, những điều kiện đưa ra ở gói hỗ trợ kinh tế thứ 2 phải phù hợp để doanh nghiệp đáp ứng được. “Trước đây, các điều kiện giống như là doanh nghiệp phải sa thải lao động thì mới được nhận hỗ trợ, chúng tôi nghĩ rằng rõ ràng doanh nghiệp phải giữ được lao động thì được hưởng sẽ là hợp lý hơn.
Trong khi lại bắt doanh nghiệp phải có 50% lao động nghỉ việc hoặc doanh thu giảm thì không hợp lý”, bà Xuân nói và cho hay doanh nghiệp muốn được hỗ trợ để giữ chân và “nuôi” được người lao động, còn nếu sa thải thì Nhà nước sẽ phải chi trả các chính sách về an sinh và bảo hiểm thất nghiệp.
Rút kinh nghiệm từ gói hỗ trợ thứ nhất, đại diện hiệp hội này đề xuất cần thiết phải cải thiện điều kiện thụ hưởng, chẳng hạn như với doanh nghiệp đảm bảo 100% duy trì được việc làm cho người lao động thì được hỗ trợ như hạ lãi suất ngân hàng ở mức tối đa, sa thải 50% lao động thì sẽ được hưởng một nửa ưu đãi.
“Một chính sách phải phù hợp với doanh nghiệp thì mới đáp ứng được yêu cầu của cả hai bên, không tạo gánh nặng cho xã hội. Theo tôi nút thắt ở đây chính là điều kiện áp dụng ở gói thứ nhất đã không thực tế. Doanh nghiệp không ai muốn sa thải lao động cả, vì vậy yêu cầu tỷ lệ sa thải lao động thì mới được hỗ trợ theo tôi là không hợp lý chút nào”, bà Xuân lý giải.
KÉO DÀI THỜI GIAN HỖ TRỢ ĐẾN HẾT NĂM 2021
Cùng với thay đổi điều kiện, đại diện Hiệp hội Da – Giày – Túi xách Việt Nam cũng đề xuất độ dài của gói hỗ trợ nên tối thiểu đến hết năm 2021, và còn tùy thuộc vào tình hình từ nay đến cuối năm nếu dịch bệnh được kiểm soát ở các nước, Việt Nam có thể quay trở lại trạng thái bình thường.
Trong khi đó, tại văn bản góp ý mới đây của Hiệp hội Dệt may Việt Nam về gói hỗ trợ kinh tế lần 2, hiệp hội này cũng cho rằng, ở gói hỗ trợ lần 1 rất nhiều chính sách doanh nghiệp và người lao động khó tiếp cận do các điều kiện quá khắt khe, không có tính khả thi.
Chẳng hạn như việc dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất và dừng đóng kinh phí công đoàn phải đáp ứng điều kiện giảm từ 50% lao động tham gia bảo hiểm xã hội trở lên. Hoặc người lao động chỉ được hỗ trợ 1,8 triệu đồng/tháng khi nghỉ việc không lương, tạm hoãn hợp đồng lao động từ 1 tháng liên tục trở lên, với điều kiện doanh nghiệp phải không có doanh thu hoặc không có khả năng tài chính để trả lương.
“Như vậy, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đóng cửa, phá sản mới được tiếp cận gói hỗ trợ. Điều này không phù hợp với những cố gắng của doanh nghiệp là tìm mọi cách để người lao động không bị sa thải”, ông Trương Văn Cẩm, Tổng Thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam cho biết.
Ngoài ra, hầu hết các gói hỗ trợ chỉ có thời hạn tối đa đến 31/12/2020, trong khi tình hình đại dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp, kéo dài và chưa dự đoán trước được.
Vì vậy, đại diện hiệp hội này cũng đề xuất cần có thêm các gói hỗ trợ để doanh nghiệp và người lao động vượt qua khó khăn. Chẳng hạn như tiếp tục sử dụng nguồn từ các gói hỗ trợ chưa sử dụng hết, mới sử dụng khoảng 20% để hỗ trợ cho doanh nghiệp và người lao động với các điều kiện dễ tiếp cận hơn, kéo dài thời hạn hỗ trợ ít nhất đến hết năm 2021.
Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động tại doanh nghiệp quốc phòng an ninh
Nghị định số 47/2021/NĐ-CP, ngày 01/4/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp 2020 đã nêu rõ các chính sách hỗ trợ đối với doanh nghiệp và người lao động tại doanh nghiệp quốc phòng an ninh.
Theo đó, các doanh nghiệp quốc phòng, an ninh được áp dụng các chính sách gồm:
Một là, được miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất và thuế sử dụng đất đối với diện tích đất được giao quản lý, sử dụng phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh phù hợp với quy định tại Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành;
Hai là, được Nhà nước đảm bảo các khoản chi phí gồm: quân trang cho sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng, hạ sỹ quan, công nhân công an; chi cho nhiệm vụ diễn tập, huấn luyện chiến đấu, huấn luyện dự bị động viên; các khoản chi cho công tác quốc phòng, an ninh, công tác phục vụ quốc phòng, quan hệ quân dân. Trường hợp ngân sách nhà nước không đảm bảo đủ thì được hạch toán các khoản chi phí này vào chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và được loại trừ các chi phí này khi thực hiện đánh giá, xếp loại doanh nghiệp theo quy định của Chính phủ;
Ba là, được Nhà nước cấp kinh phí cho việc duy trì, bảo dưỡng, sửa chữa vận hành các dây chuyền sản xuất quốc phòng, an ninh trong trường hợp tạm ngừng sản xuất mà không có khả năng tự bù đắp chi phí;
Bốn là, được Nhà nước hỗ trợ 02 quỹ khen thưởng và phúc lợi bằng 02 tháng lương thực hiện trong trường hợp không đủ nguồn để trích lập;
Năm là, được Nhà nước hỗ trợ kinh phí nhà trẻ, giáo dục tại địa bàn chưa có trường lớp theo hệ thống giáo dục công lập; kinh phí y tế đối với những nơi do điều kiện đặc biệt phải duy trì bệnh xá;
Sáu là, được tính khấu hao đối với những tài sản cố định là dây chuyền đầu tư sản xuất vũ khí, khí tài, trang thiết bị phục vụ nhiệm vụ quốc phòng an ninh có vốn đầu tư lớn theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Bên cạnh đó, người lao động trong doanh nghiệp quốc phòng, an ninh được áp dụng các chế độ, chính sách sau:
- Tiền lương của lao động là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan được tính phù hợp với quy định về chế độ, chính sách của pháp luật đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan và căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Khi thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, người lao động nếu bị thương hoặc bị chết mà đủ điều kiện, tiêu chuẩn thì được xem xét, xác nhận là người có công theo quy định của pháp luật về người có công; người lao động bị tai nạn lao động thì xét hưởng chế độ tai nạn lao động theo quy định của pháp luật về lao động.
- Nhà nước đảm bảo kinh phí trả lương, đóng bảo hiểm xã hội cho sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp trong thời gian chuẩn bị nghỉ hưu; thanh toán các khoản chi ra quân, xuất ngũ, phục viên, thôi việc theo chế độ hiện hành; hỗ trợ trả lương cho số lượng người lao động tối thiểu cần phải duy trì để doanh nghiệp vận hành các dây chuyền sản xuất quốc phòng an ninh trong trường hợp tạm ngừng sản xuất mà không có khả năng tự bù đắp chi phí.
Nghị định số 47/2021/NĐ-CP có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký.
Mở rộng thị phần dệt may trong nước Với dân số hơn 97 triệu người và GDP bình quân đầu người đạt hơn 3.500 USD, thị trường trong nước được coi là mảnh đất "màu mỡ" để các doanh nghiệp (DN) dệt may đẩy mạnh phát triển, gia tăng thị phần. Tuy nhiên, để có thể chiếm lĩnh thị trường, đặc biệt là tăng sức cạnh tranh với các đối thủ...