Gieo chữ nơi vùng núi đá Lũng Chinh
Những ngày mới về Trường Dân tộc bán trú tiểu học Lũng Chinh (xã Lũng Chinh, H.Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang) công tác, các giáo viên trẻ: Nguyễn Thị Huế (quê tỉnh Tuyên Quang), Lục Thị Xuyến (quê tỉnh Bắc Kạn), Đinh Văn Hùng (quê tỉnh Phú Thọ)…
sợ nhất là chạy xe máy men theo những triền vực cheo leo về các điểm lẻ: Sủng Tà, Sèo Sùng Sán, Sủng Mùng, Mèo Vống… dạy học.
Điểm chính Trường Dân tộc bán trú tiểu học Lũng Chinh (thuộc thôn Lùng Phủa, xã Lũng Chinh, H.Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang) có gần 400 con em đồng bào các dân tộc thiểu số theo học. Ảnh: Đoàn Phú
Mong muốn của các thầy cô, công việc bám bản gieo chữ cho con em đồng bào các dân tộc bản địa tại các điểm lẻ này cũng chẳng khác gì người Mông, Cờ Lao, Hoa, Dao, Tày khát khao hạt bắp trên núi đá sớm ra hoa, kết hạt.
* Thầy không được vắng lớp
Xã Lũng Chinh là xã miền núi đặc biệt khó khăn, có 7 thành phần dân tộc với 829 hộ dân sinh sống tập trung theo từng nhóm cộng đồng như: Mông, Dao, Cờ Lao, Tày… tại các thung lũng thuộc 7 thôn: Lùng Phủa, Sủng Tà, Sèo Lùng Sán, Sủng Mùng, Mèo Vống, Sủng Khể, Tìa Sính. Trong 7 thành phần dân tộc anh em sinh sống tại địa phương thì đồng bào Mông chiếm 88% dân số. Cho nên, cái nghèo về vật chất, con chữ của đồng bào dân tộc Mông cũng chiếm đa số.
Nắng tháng 4 hạt bắp gieo xuống vách đá thiếu mưa nên chậm vươn lên thành cây để che đi cái hiên ngang của đá ngổn ngang trên nương rẫy. Bóng các trò nhỏ dân tộc Mông (điểm lẻ Mèo Vóng): Sùng A Tú, Chá Mí Cờ, Sùng Mí Tủa, Sùng Mí Kia… thật nhỏ bé so với những tảng đá, ngọn đồi. Dù biết nói tiếng Kinh, viết được Tiếng Việt nhưng khi chúng tôi hỏi chuyện các em nhỏ vẫn tròn xoe đôi mắt nhìn, lắc, gật đầu, gặng hỏi mãi cũng chỉ biết được tên và điểm trường các em đang theo học, ngoài ra chẳng biết được gì thêm trước những đôi mắt tròn xoe nhìn người lạ đầy cảnh giác.
May sao có một người Mông trên đường đi chợ về dừng lại và sau vài câu chào hỏi, ông hỏi tên, điểm trường nơi các em theo học giùm chúng tôi. Người đàn ông này còn vui vẻ nói: “Con em đồng bào Mông và các dân tộc thiểu số (DTTS) khác đi học để biết thật nhiều chữ. Dùng cái chữ để biến đất, đá thành vườn rẫy tốt, bản làng giàu có hoặc chí ít lớn lên ra phố thị làm công nhân để có tiền gửi về cho cha mẹ nuôi các em. Nhất là không để cái bụng còn thèm cơm thịt cá vì phải ăn mèn mén với cải mọc hoang ngoài nương”.
Nhóm thiện nguyện Vạn Sự Tùy Duyên (H.Long Thành) tới thăm, tặng quà các giáo viên điểm chính Trường Dân tộc bán trú tiểu học Lũng Chinh. Ảnh: Đoàn Phú
Điểm chính Trường Dân tộc bán trú tiểu học Lũng Chinh nằm hiên ngang nơi con dốc vào UBND xã Lũng Chinh (thuộc thôn Lùng Phủa). Điểm trường có trên 400 con em đồng bào các DTTS và đồng bào Kinh học bán trú, nội trú. Với 12 năm bám bản dạy học, thầy Đinh Văn Hùng (chủ nhiệm lớp 3B tại điểm chính) giờ chẳng sợ những lối mòn (do dân mở, chỉ rộng từ 0,5m-1m), phóng nhanh xe máy từ 4 giờ sáng vượt hết núi đá cao này tới núi đá cao dựng đứng khác để kịp có mặt tại điểm lẻ Sủng Tà, Sủng Mùng, Sèo Lùng Sán dạy học. Mặc dù sáng đi, trưa về nhưng thầy Hùng vẫn thấy vui khi sĩ số lớp nơi thầy và đồng nghiệp bám bản vẫn không bị “rơi rụng” nhiều sau mỗi mùa dọn đất tỉa hạt hay thu hoạch, lễ hội.
Thầy Hùng bộc bạch, học trò vùng cao Lũng Chinh quen với đôi chân và đầu trần vượt đèo, leo dốc tìm con chữ. Còn giáo viên Trường Dân tộc bán trú tiểu học Lũng Chinh thì quen với những cơn gió lạnh buốt của vùng núi cao buổi sớm hay mưa phùn mùa Đông. Chính vì vậy, từ khi đặt chân lên vùng núi đá Lũng Chinh dạy học, các giáo viên trong trường luôn làm đúng với những gì Ban giám hiệu nhà trường, chính quyền, phụ huynh nhắn gửi: “Lớp học dù có vắng vài trò, chứ không được vắng thầy”.
Video đang HOT
* Sau giờ lên lớp…
Trường Dân tộc bán trú tiểu học Lũng Chinh có trên 700 học sinh (từ lớp 1-5). Mỗi khi tiếng trống trường vang vọng khắp các vách đá vào ban trưa thì chiều về các thầy cô giáo nội trú tại trường lại bận bịu soạn giáo án cho ngày hôm sau. Những hôm cúp điện, các thầy cô phải chong đèn cơm nước, soạn và chấm bài hoặc ra mái hiên ngồi nhìn đá nhớ gia đình, con thơ.
Về cắm bản Sủng Khể vào năm 2010, chừng ấy năm cô Nguyễn Minh Huế (dạy lớp 4 ở điểm lẻ Mèo Vống) bám điểm lẻ gieo chữ. Do các điểm lẻ không có nơi ở nên cô và các giáo viên chưa có nhà riêng, phải thuê trọ nhà dân tại điểm trường chính là thôn Lùng Phủa để ở. Ngoài việc sáng đi dạy điểm lẻ, trưa về điểm chính, cứ 2 hoặc 3 tháng cô Huế mới chạy xe máy về quê ở H.Hàm Yên (tỉnh Tuyên Quang) thăm con, thăm chồng một lần. Đoạn đường trên 300km từ Hàm Yên đến Lũng Chinh nhiều đèo cao, vực sâu nhưng không làm cô Huế nản lòng khi quay trở lại trường, gắn bó với các trò nhỏ ở Lũng Chinh.
Các trò nhỏ Trường Dân tộc bán trú tiểu học Lũng Chinh giờ tan học. Ảnh: Đoàn Phú
Cô Huế tâm sự, tại các thôn có nhiều bản làng đồng bào các DTTS như: Mông, Dao, Cờ Lao… sinh sống, mỗi bản thường cư trú một nhóm đồng bào DTTS, hiếm khi dân tộc Mông ở cùng bản với dân tộc khác và ngược lại. Mỗi bản thường có từ 20-40 nóc nhà, đồng bào các DTTS lập bản tại những vùng đất tương đối bằng phẳng hay thung lũng rộng. Riêng những khu vực hẻo lánh có bản chỉ có trên dưới 10 nóc nhà. Dù bản hẻo lánh, các trò nhỏ vẫn kiên trì vượt núi, đèo dốc tới trường.
Trao đổi với chúng tôi, cô Phạm Thu Hường, Hiệu trưởng Trường Dân tộc bán trú tiểu học xã Lũng Chinh cho biết, đặc điểm của các xã, huyện vùng núi đá tỉnh Hà Giang là trường có nhiều điểm lẻ. Đó cũng là chính sách của ngành Giáo dục, tỉnh, huyện, xã với quyết tâm mang được lớp học đến gần các bản làng, giúp bước chân con em đồng bào các DTTS trên địa bàn xã Lũng Chinh đỡ mỏi, nhất là tránh tình trạng bỏ học, chán học vì đường tới lớp quá xa.
Chiều cuối tuần đầu tháng 4-2022, khi các trò ở điểm chính Trường Dân tộc bán trú tiểu học Lũng Chinh lần lượt được phụ huynh đón về bản hoặc tự cuốc bộ về nhà thì khu tập thể nơi các thầy cô giáo nội trú chỉ còn thấy bóng dáng thầy cô ngồi trước hiên khu tập thể ngoài khuôn viên trường nhặt rau, đun nước. Các thầy cô có vẻ vui hơn vì có khách lạ phương xa là chúng tôi tới thăm, hỏi chuyện bám bản gieo chữ của bao thế hệ thầy cô của Trường Dân tộc bán trú tiểu học Lũng Chinh.
Thầy NÔNG QUỐC CHẤN, chủ nhiệm lớp 3A, điểm chính Trường Dân tộc bán trú tiểu học Lũng Chinh với 27 năm bám các bản làng ở xã Lũng Chinh gieo chữ bộc bạch, cái khó của giáo viên bám bản, cũng như học sinh, đồng bào các DTTS ở vùng núi đá vôi là nguồn nước sinh hoạt được tích trữ từ mùa mưa dùng dè xẻn. Khi nguồn nước này kiệt thì phải đi hứng nước rỉ từ vách đá để sử dụng.
Ngôi mộ hình hồ lô bí ẩn & giai thoại bi thảm: Người tự tử, kẻ đi tu sau một lời tỏ tình?
Ngôi mộ hình hồ lô trong chùa trên núi đá Bửu Long được cho là dấu vết còn lại của mối tình đơn phương của người tín nữ trót động lòng phàm với người tu.
Bí ẩn hang sâu và cặp rắn có mào trên núi Long Ẩn
Trong tâm thức người Á Đông xưa, những vùng núi non, đại ngàn thường ẩn chứa những bí ẩn, những giai thoại dân gian huyền hoặc. Nơi con sông Đồng Nai chảy qua Biên Hòa cũng là vùng địa linh, mà người xưa ví như một con rồng ẩn. Đầu rồng là núi Long Ẩn (còn gọi là núi Bửu Long) và miệng rồng ngậm một hòn ngọc châu là núi Bình Điện.
Phía sườn đông của núi Long Ẩn là một ngôi chùa mang tên chùa Hang, tên Hán Việt là Long Sơn Thạch Động. Người già kể lại, thuở sơ khai, chùa Hang là một hang đá tự nhiên ở lưng chừng núi, phía trong khá sâu. Đặc biệt, ở đây có rất nhiều rắn.
Hiện nay, dù đã được xây cất, chùa Hang vẫn giữ được vẻ hoang sơ. Vì nằm ở lưng chừng núi đá, ngôi chùa này cũng có rất nhiều cổ thụ, dáng vẻ kỳ quái. Ở đây cũng có nhiều mộ phần đá.
Một người tu hành tên Thích Thiện Thọ, người sống ở tịnh thất Sơn Long Bửu Điện ngay gần chùa Hang kể lại, mỗi lần chùa sửa chữa, thợ xây và các thầy tu phải vác từng bao cát đá, xi măng từ dưới chân núi lên.
Người này cũng kể thêm nhiều chuyện kỳ bí để cho răng chùa Hang là nơi linh ứng. "Cách đây ít năm, ở đây có cặp rắn ông rắn bà. Tôi tận mắt nhìn thấy. Cặp rắn ông rắn bà này nằm lưng chừng ngã ba, bự lắm, cỡ chiếc gối ôm em bé.
Cặp rắn này trên đầu có mồng đỏ chót như mồng gà, rất quái lạ. Đặc biệt, cặp rắn này có thân người ngắn và mập chứ không dài như rắn thường. Còn rắn khác thì nhiều, nhất là ở trong hang. Nhưng lâu lâu "họ" lại kéo ra ngoài, người đi lễ trông thấy thì sợ hãi. Có lẽ vì thế mà sau này cửa hang được bít lại cho hẹp bớt, rắn đỡ ra ngoài.".
Giai thoại về ngôi mộ hình hồ lô
Điều kỳ lạ nhất của ngôi chùa này, đó là một ngôi mộ có hình hồ lô. Thoạt nhìn, ngôi mộ này giống như một tiểu cảnh để trang trí cho khung cảnh chùa thêm sinh động. Ở trên miệng bình, có nhánh bồ đề xanh tươi mơn mởn.
Cho đến khi đứng phía chính diện, nhìn tấm bia mộ đề tên tuổi, người ta mới biết đó là nơi chôn cất một người quá cố.
Ông Thích Thiện Thọ nói rằng, ngôi mộ hình hồ lô này là những gì còn lại của một giai thoại bi thương được người sống quanh vùng truyền miệng.
"Năm xưa, có một nữ Phật tử thường đến chùa Hang làm công quả. Vị Phật tử này, nghiệt ngã thay, lại động lòng phàm tục với một vị sư ông trong chùa. Một lần nọ, vì không thể giấu giếm tình cảm, nữ Phật tử này đã thổ lộ tất cả với sư ông. Người phụ nữ còn nắm tay sư ông
Tuy nhiên, từ những ngày tóc xanh, vị sư ông đã nguyện một lòng hướng Phật, không vướng lòng phàm. Sau khi bị tỏ tình, sư ông kiên quyết từ chối và tự thiêu mình để bảo toàn danh dự. Nữ Phật tử sau đó cũng ăn năn sám hối, xuống tóc quy y, lấy pháp danh Diệu Phước.
Sau này khi cô mất đi, theo di nguyện, tro cốt của cô được đặt trong ngôi mộ hình hồ lô tịnh thủy gần giống như bình nước cam lộ, như xin được sự chở che của Mẹ Quan Thế Âm. Đó cũng là cách gửi gắm lời sám hối cho lầm lỗi của mình.".
Cũng theo lời vị này, tro cốt của sư ông đã tự thiêu được đặt trong tháp mộ 3 tầng ở một cồn đất gần chân núi, nay thuộc địa phận khu du lịch Bửu Long. Thâp cốt ấy, lâu ngày không ai chăm sóc nên đã thành hoang phế, chỉ còn những tàn tích, dấu vết xưa cũ.
Người nằm dưới mộ thật sự là ai?
Câu chuyện bi thuơng này nghe qua thì vừa xót xa, vừa cảm động. Nhưng nhiều chi tiết, logic trong đó khiến người ta phải lật lại vấn đề. Sự khác biệt giữa hai ngôi mộ (nếu chuyện sư ông tự thiêu để bảo toàn danh dự là có thật), một bên được chăm nom quét tước, đặt trong chùa ở trên núi; một bên lại bị hờ hững, bị suy suyển, lại đặt ở trên cồn đất thấp cũng gây ra những hoài nghi.
Người kể chuyện bi lụy phía trên, ông Thích Thiện Thọ đã phải ngắt quãng nhiều lần sau khi trải qua cơn tai biến, phải mổ hộp sọ. Ông bị liệt vận động nửa người, đi lại khó khăn. Tuy nhiên, câu chuyện này cũng được lưu truyền tại địa phương đã lâu, được nhiều người khác kể lại tương tự.
Trở lại với ngôi mộ hình hồ lô. Trước mộ, tấm bia được khắc ghi rõ chữ: Sư cô Dương Thị Giàu, pháp danh Diệu Phước, hưởng thọ 50 tuổi, tịch diệt ngày 1 tháng 1 năm 1975, huynh trưởng lập mộ. Theo đó, cô Dương Thị Giàu sinh năm Bính Dần (1926).
Đại đức Thích Huệ Minh, trụ trì chùa Hang đã có lý giải khác với giai thoại dân gian. Đại đức cho biết, ngôi mộ hồ lô này ở chùa quen gọi là "mộ bà Sáu". Bà Sáu tức là sư cô Diệu Phước, người phát tâm xuất gia tu hành ở chùa Hang từ lúc nhỏ chứ không phải là Phật tử đi tu. Sư cô bệnh và qua đời ở tuổi 50. Ngôi mộ do cố hòa thượng Thích Quảng Đạt (trụ trì chùa những năm trước 1975) xây dựng sau khi sư cô viên tịch.
Hồ lô theo quan niệm Phật giáo là bình nước cam lồ mà Phật bà Quan Âm cầm trên tay để cứu khổ, cứu nạn chúng sinh. Thầy trụ trì nhận định, có thể trước khi lâm chung, sư cô Diệu Phước có để lại một ước nguyện là muốn nơi an nghỉ của mình đặt tại ngôi chùa cả đời tu hành, trên mảnh đất sát triền núi, nhìn ra hồ Long Ẩn mây nước hữu tình. Do đó, cố hòa thượng Quảng Đại (vốn là huynh trưởng của sư cô) thực hiện theo ý nguyện cuối cùng đó.
Sở GD Hòa Bình yêu cầu tuyển sinh vào lớp 10 không quá 45 học sinh/lớp Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình hướng dẫn xây dựng kế hoạch tuyển sinh năm học 2022 - 2023 khối các Trường dân tộc nội trú và các Trường trung học phổ thông. Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình ban hành văn bản hướng dẫn các đơn vị trực thuộc về "xây dựng kế hoạch tuyển sinh năm học...