Giáo sư: ông là ai, đang làm gì?
Theo GS.TS Nguyễn Đức Dân, cứ theo cách làm hiện nay, đội ngũ giáo sư, phó giáo sư sẽ ngày càng phình ra, còn chất lượng thì teo lại, mãi mãi không đuổi kịp ai.
ảnh minh họa
Lời tòa soạn: Xoay quanh câu chuyện rà soát lại việc phong chức danh giáo sư, phó giáo sư (GS, PGS) năm 2017, GS.TS Nguyễn Đức Dân đã có những kiến nghị về hệ thống GS hiện nay. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.
Rà soát theo kiểu “vừa đá bóng vừa thổi còi”
Kết quả xét phong chức danh GS, PGS năm 2017 có số lượng tăng đột biến, khiến dư luận xôn xao và Thủ tướng đã ra chỉ thị phải rà soát lại danh sách này.
Có điều, những thành viên trong Hội đồng chức danh GS nhà nước – những vị cầm cân nảy mực ra quyết định cho người này người nọ được nhận hay bị đánh trượt chức danh chuẩn GS, PGS thì nay chính họ lại được trao quyền kiểm tra rà soát xem quyết định của mình có đúng hay không.
Tại sao không giao việc rà soát cho những người độc lập với những hội đồng này?
Hẳn Thủ tướng biết quy luật “không ai lấy đá ghè chân mình”, không thể vừa đá bóng vừa thổi còi, nên có thể khả năng rất cao là Thủ tướng đã thấy trước báo cáo của các hội đồng này, đại loại sẽ là “làm việc chặt chẽ, kỹ lưỡng, nghiêm túc và công tâm”, “các kết quả kiểm tra đều khớp với việc thẩm định hồ sơ ban đầu” và “kết quả về cơ bản là chính xác, đúng đắn”.
Rốt cuộc lượng GS, PGS tăng đột biến này đã thêm vỏ bọc “được rà soát kép” theo “quy trình chặt chẽ”. Vậy là thoát rồi! Đội ngũ GS, PGS lẫn lộn vàng thau, không thực chất, vốn được tích tụ trong nhiều năm qua, nay lại được bổ sung một lượng khủng những GS, PGS hữu danh vô thực.
Cứ theo cách làm hiện nay, đội ngũ GS, PGS sẽ ngày càng phình ra, còn chất lượng thì teo lại, mãi mãi không đuổi kịp ai.
Video đang HOT
GS.TS Nguyễn Đức Dân – Ảnh: H.HG.
Nguyên lý, chính sách để nâng cao chất lượng GS, PGS, TS
Giải quyết tình trạng trên như thế nào? Cần làm ngay, nhưng cần có thời gian để các trường tự điều chỉnh.
Tôi không lạm bàn về những chiến lược, chính sách phát triển khoa học, giáo dục, phát triển tổng thể hệ thống và mạng lưới các trường đại học của Nhà nước; mà chỉ đề cập tới những nguyên lý và chính sách cụ thể liên quan đến nâng cao chất lượng đội ngũ GS, PGS, TS hiện nay.
Những nguyên lý chung là: thực hiện tự chủ đại học triệt để. Việc trường nào do đội ngũ giảng viên của trường đó quyết định. GS, PGS phải là những người đang trực tiếp đào tạo và giảng dạy. Do vậy:
- Xây dựng đội ngũ GS, PGS của mỗi trường. Trả lại cho từng đại học quyền tự chủ bổ nhiệm GS, PGS do Hội đồng phong học hàm chuyên ngành (HĐHH) trường quyết định. Nhà nước (Bộ GD-ĐT) quy định những điều kiện cần tối thiểu và lượng hóa được cho hai chức danh GS, PGS.
Những HĐHH chuyên ngành này được thành lập theo nhu cầu bổ nhiệm một chức danh cụ thể nào đó. Xong việc là tự giải thể (tựa như việc thành lập các hội đồng chấm luận án tiến sĩ hiện nay). Nghĩa là trong trường không có HĐHH cố định và tổng quát cho mọi ngành.
Số lượng thành viên mỗi hội đồng nên ít, khoảng 4-6 người, trong đó có không dưới 2/3 thành viên ngoài trường (để đảm bảo tính khách quan).
Trường cần thông báo công khai và trước một thời gian nhất định những vị trí GS, PGS cần tuyển. Ứng viên cho những chức danh này không nhất thiết là giảng viên cơ hữu của trường. Những chức danh này chỉ có giá trị trong trường đã bổ nhiệm.
- Minh bạch hóa chất lượng đội ngũ giảng viên mỗi trường. Chất lượng ở đây được hiểu là những công trình khoa học. Tôi tạm chưa đề cập tới những yếu tố chưa lượng hóa được về phương diện chất lượng khoa học, như có bao nhiêu nhà giáo ưu tú, nhà giáo nhân dân, bao nhiêu bằng khen, huân huy chương, bao nhiêu chiến sĩ thi đua, bao nhiêu đề tài nghiên cứu khoa học cấp này cấp kia…
Minh bạch hóa bằng quy tắc mỗi trường, đều phải có cẩm nang thông tin khoa học xuất bản hằng năm, của các giảng viên cơ hữu của trường. Ở đó chỉ cần ghi tên bài đăng ở tạp chí nào (ngoài nước và trong nước), kèm thời gian cụ thể, có những giáo trình hay những công trình nghiên cứu nào. Tất cả các giảng viên TS, PGS, GS đều phải được ghi tên vào cẩm nang này, dù không có công trình nào.
- Ngoại lệ: kiến nghị này không áp dụng với những trường đặc thù cần có cơ chế riêng thuộc lĩnh vực an ninh và quân đội.
Nếu thực hiện kiến nghị trên, với xã hội, chức danh GS, PGS sẽ trở nên minh bạch, mọi người sẽ biết được GS, PGS ông là ai, đang làm gì, hay chỉ là một vùng trắng, một “GS giấy” trong khoa học.
Theo TTO
Phong tặng Giáo sư, Phó giáo sư: Không dành cho người háo danh
Giáo sư, Phó giáo sư là những người có uy tín về đào tạo, cống hiến thực sự cho nghiên cứu khoa học nên không thể dành cho những người háo danh.
Anh Trần Xuân Bách (32 tuổi) là người trẻ nhất trong 638 nhà giáo được công nhận phó giáo sư năm 2016
Hội đồng Chức danh Giáo sư nhà nước vừa công bố danh sách ứng viên đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư (GS, PGS) năm 2017 (tăng khoảng 60% so với năm trước).
Lý giải từ phía Hội đồng về số lượng người đạt chức danh cao quý trên tăng đột biến là do ngày hết hạn nộp hồ sơ lùi lại nửa năm (là ngày 5/11/2017) và năm 2018 sẽ có sự thay đổi về quy định phong GS, PGS, nên tâm lý chung của các ứng viên là mong muốn mình đi về "chuyến tàu cuối".
Tuy nhiên, dư luận đang xôn xao về chất lượng đội ngũ GS, PGS thực sự có đồng đều và tất cả những người được vinh danh thực sự xứng đáng hay chưa?
Vì có thông tin đưa ra là khoảng 34% GS được xét duyệt năm 2017 không có bài báo khoa học đăng trên các tạp chí nổi tiếng quốc tế và có trên 53% PGS được xét duyệt năm nay không có bài báo khoa học trên các tạp chí uy tín quốc tế.
Đặc biệt, trong số các GS, PGS được phong tặng năm nay có nhiều người làm quan chức, không tham gia vào công tác giảng dạy. Chính những điều này đã khiến cho những người trước đây được công nhận chức danh GS, PGS cảm thấy chưa phục và khiến dư luận hoài nghi về "vàng thau" lẫn lộn.
Người không giảng dạy, nghiên cứu thì đừng ứng cử PGS, GS
Bàn luận về vấn đề trên, Tiến sỹ (TS) Hoàng Ngọc Vinh, Phó Chủ tịch Hiệp hội Giáo dục Nghề nghiệp Việt Nam cho rằng, thực chất, chức danh GS, PGS là những người có học hàm cao làm việc ở trong các trường ĐH, Viện nghiên cứu với nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học, đưa ra những sáng chế, phát minh; đồng thời là chủ nhiệm các dự án mang tầm cỡ quốc gia, thậm chí có vai trò rất lớn đối với thế giới.
GS, PGS là chức danh cao quý dành cho những người thực sự vì nghiên cứu khoa học và sự nghiệp giáo dục đào tạo ( Ảnh minh họa)
Theo TS Hoàng Ngọc Vinh, những người không giảng dạy, nghiên cứu ở các trường ĐH thì không nên đăng ký làm hồ sơ xét duyệt phong tặng chức danh GS, PGS làm gì. Bởi vì chức danh này chỉ dành cho những người làm nghiên cứu, đào tạo tài năng trẻ trong tương lai.
Chức danh GS, PGS là chức danh cao quý dành cho những người thực sự vì nghiên cứu khoa học, học thuật và sự nghiệp giáo dục đào tạo. Chứ không phải là chức danh "ảo" dành cho những người ham danh hiệu, háo danh.
Bộ GD-ĐT đang lấy ý kiến cho dự thảo quy định tiêu chí xét duyệt GS, PGS mới với nhiều tiêu chí khắt khe hơn.
TS Hoàng Ngọc Vinh cho rằng, để việc phong tặng được thực chất, khách quan thì Hội đồng ngành phải làm việc hết sức nghiêm túc vì đây là đơn vị có vai trò quan trọng và tư vấn cho Hội đồng chức danh giáo sư Nhà nước. Nếu Hội đồng ngành có những người thầy "thương" học trò, dễ dàng trong việc chấm điểm thì có thể dẫn tới việc bỏ phiếu cho ứng cử viên thiếu công bằng.
Mặt khác, việc xét tặng GS, PGS nên tính đến việc người đó hướng dẫn thành công cho bao nhiêu nghiên cứu sinh về mặt học thuật và những công trình khoa học có đóng góp gì cho sự phát triển đất nước. Ngoài ra, vai trò của GS, PGS còn có tác dụng lớn như thế nào trong việc hợp tác quốc về khoa học công nghệ, đóng góp cho sự phát triển về học thuật và tài chính cho trường ĐH mà họ đang công tác.
Theo TS Hoàng Ngọc Vinh, Việt Nam đang hội nhập với thế giới thì chắc chắn chúng ta phải nâng chuẩn chức danh GS, PGS như có nhiều công trình được công bố trên các tạp chí quy tín quốc tế; tự tin trao đổi, nghiên cứu khoa học bằng ngoại ngữ một cách thành thạo. Đã đến lúc chúng ta cần bàn lại các thang, bậc đo lường về chức danh GS, PGS theo tiêu chuẩn như trên.
Trường ĐH nên thưởng cao cho ứng cử viên có công trình quốc tế
Đứng ở góc độ là người có công bố quốc tế nhiều nhất năm 2017 (16 bài), tân PGS Nguyễn Quảng Trường, Viện Sinh Thái và Tài nguyên Sinh vật cho rằng, không phải lĩnh vực nào cũng có thuận lợi trong việc công bố quốc tế. Ví dụ như các ngành về khoa học tự nhiên, môi trường thì một tiến sĩ có thể thuận lợi hơn trong việc công bố quốc tế. Tuy nhiên, những ngành khoa học xã hội sẽ khó khăn hơn, không phải lĩnh vực nào cũng có thể tìm hiểu, công bố dễ dàng vì còn liên quan đến chính trị, tôn giáo, văn hóa...
Tuy nhiên việc xét duyệt người đạt tiêu chuẩn PGS, GS cần cân nhắc tới hướng đạt chuẩn quốc tế như trường ĐH khuyến khích các ứng cử viên có được các công bố quốc tế bằng khoản tiền thưởng cao. Ngoài ra, tiêu chí về công bố quốc tế cũng cần đặt ra khắt khe hơn như có bao nhiêu sách, tạp chí quốc tế trích dẫn lại những công trình của ứng cử viên bao nhiêu lần, tầm ảnh hưởng quốc tế của các công trình mà ứng cử viên công bố như thế nào.
Còn những ngành, lĩnh vực nào khó có công bố quốc tế thì cũng cần có tiêu chí riêng, cụ thể nên cần được Bộ GD-ĐT, Hội đồng chức danh GS Nhà nước và các trường ĐH nghiên cứu kỹ lưỡng
Theo VOV
Hai kẽ hở trong xét công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư Nhiều nhà khoa học chỉ ra việc bỏ phiếu kín tại các hội đồng và chấm điểm công trình khoa học còn chủ quan, dễ phát sinh tiêu cực. ảnh minh họa Phó giáo sư nổi tiếng của một trường đại học thuộc tốp đầu Việt Nam trong đợt xét công nhận chức danh giáo sư năm 2010 đã bị đánh trượt ở...