Giáo dục ĐH Việt Nam hội nhập quốc tế: Liều để ra “biển lớn”?
Giáo dục đại học nước nhà còn quá nhiều điểm yếu, khiếm khuyết… là thách thức với quá trình hội nhập quốc tế. Nhưng nếu ngồi chờ cho “đủ chuẩn” mới nghĩ đến việc hội nhập thì những khiếm khuyến càng sâu sắc.
Các nhà giáo dục, nhà khoa học trong nước và thế giới đã chỉ ra các vấn đề của giáo dục đại học (GDĐH) Việt Nam trong tiền trình hội nhập quốc tết tại hội thảo “Giáo dục đại học Việt Nam hội nhập quốc tế” do Quỹ phát triển ĐH Quốc gia TPHCM tổ chức ngày 9/11.
Đông đảo các nhà quản lý giáo dục, nhà khoa học tham dự hội thảo “Giáo dục đại học Việt Nam hội nhập quốc tế”.
Giáo dục đại học… yếu đều
GS Nguyễn Văn Tuấn (Viện nghiên cứu Y khoa Garvan, Australia) cho hay nghiên cứu khoa học (NCKH) là yếu tố liên quan chặt chẽ đến kinh tế tri thức và ảnh hưởng lớn đến thứ hạng của một ĐH trên thế giới. Tuy nhiên, sự hiện diện của khoa học Việt Nam trên trường quốc tế hiện nay quá khiêm tốn nếu không muốn nói là quá lu mờ.
Trong thời gian 41 năm (từ 1970 – 2011), Việt Nam công bố được 10.745 bài báo khoa học trên các tạp san khoa học quốc tế. Con số này chỉ bằng 22% của Thái Lan, 27% của Malaysia và 11% của Singapore. Tầm ảnh hưởng của các công trình NCKH của Việt Nam cũng thấp nhất trong các nước được đề cập trên.
PGS.TS Lưu Tiến Hiệp chỉ ra những hạn chế cho việc hội nhập quốc tế của GDĐH Việt Nam.
Chưa kể trong con số kể trên, khoảng 80% bài báo khoa học từ Việt Nam là do hợp tác với đồng nghiệp với nước ngoài. Sự phụ thuộc vào “ngoại lực” quá nhiều nên trí thức khoa học và thành quả không còn dựa trên chất liệu Việt Nam mà ông Tuấn ví rằng chúng ta giống như “lính đánh bộ”.
Video đang HOT
“Có dạo, hàng loạt báo chí “đánh” khoa học nước nhà. Nghe thì buồn nhưng thấy cũng không hẳn là oan, chúng ta có hơn 9.000 GS, PGS và hơn 8.000 tiến sỹ trong các ĐH nhưng mỗi năm chỉ công bố được khoảng 1.100 bài báo khoa học, người ta không kêu mới lạ”, ông Tuấn thẳng thắn.
Theo bài báo cáo của PGS.TS Lưu Tiến Hiệp (Trưởng văn phòng đại diện trường University Preparation College (UPC) Sydney, Australia), GDĐH Việt Nam khó hòa nhập do yếu kém trải đều gần như toàn diện. Khả năng tiếng Anh yếu từ lãnh đạo xuống sinh viên, ít hiểu biết về đối tác, không nắm bắt được chuẩn mực quốc tế dẫn đến thái độ ngán ngại, mất tự tin khi hội nhập và hợp tác quốc tế.
Ông Hiệp nhấn mạnh việc quản lý GDĐH hiện nay chưa bài bản, còn chắp vá tràn lan trong khi cơ chế tự quản của ĐH còn rất hạn chế. Các trường muốn thoát được chương trình khung đã tồn tại từ lâu không phải dễ, khó để học được những cái hay từ những trường có cơ chế tự trị và tự do học thuật mà mình muốn liên kết.
TS Hồ Vũ Khuê Ngọc (ĐH Ngoại ngữ thuộc ĐH Đà Nẵng) cho rằng việc thiếu nguồn lực có chuyên môn là trở ngại lớn nhất đối với sự phát triển cũng như hội nhập khu vực và quốc tế của GDĐH Việt Nam. Tình trạng chảy chất xám khỏi ngành giáo dục khi nhiều người giỏi từ chối làm việc ở trường học.
Phải liều?
Từ phân tích thẳng thắn của các chuyên gia trong hội thảo có thể thấy GDĐH Việt Nam đang mang thân thể yếu ớt mà như có người còn so sánh như là “thân thể khuyết tật” để ra với biển lớn. Thế nhưng trong 26 tham luận tại hội thảo của các chuyên gia giáo dục, nhà quản lý giáo dục và các nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước đều có tinh thần xây dựng, tìm phương án để GDĐH Việt Nam hội nhập mạnh mẽ hơn.
Các phương án như cần đầu tư hiệu quả cho nghiên cứu khoa học, tập trung phát triển nhân lực, tăng quyền tự chủ cho ĐH, chính sách cởi mở, chú trọng phát triển đào tạo từ xa, xây dựng đại học mở … được nhiều đại biểu chia sẻ.
Trước tâm huyết mong muốn GDĐH Việt Nam “ra biển” của các chuyên gia, một đại biểu đến từ Hà Nội đặt câu hỏi: “Nếu xem GDĐH Việt Nam như một học sinh trung bình – tôi không muốn dùng từ yếu – thì khi cố để hội nhập có giống như ép một học sinh đó ngồi vào lớp chọn? Học trò đó có thể khá hơn nhưng cũng có thể vì áp lực nên đã kém sẽ lại càng đuối?”.
Trước câu hỏi, đại diện của trường ĐH Quốc gia TPHCM cho hay biết mình đang ở đâu là điều cần thiết. Nhưng không có nghĩa mình luôn nghĩ rằng mình không làm được mà cần giải quyết từng vấn đề và biết con đường nào để đi.
Đồng tình với ý kiến này, PGS.TS Lưu Tiến Hiệp cho rằng, ĐH là nơi nghiên cứu và giảng dạy kiến thức không có giới hạn về quốc tịch, chủng tộc, giới tính nên khi thành lập bản thân nó đã phải là “đại học quốc tế”. Nhưng các trường vì ngán ngại mà định vị mình ra khỏi sự hội nhập quốc tế, tự đặt mình ra khỏi quan niệm được thiết lập từ lâu về vai trò của ĐH.
Ông Hiệp cho rằng lỗi hệ thống của ngành giáo dục làm quá trình hội nhập quốc tế của các trường chậm hơn nhưng không thể vì thế mà ngồi chờ cho đủ điều kiện rồi mới dám thực hiện. Vì nếu dừng lại thì các khiếm khuyết sẽ càng sâu sắc hơn.
“Nếu dừng lại các khiếm khuyết sẽ càng sâu sắc hơn. Nên các trường nên tự lực cánh sinh trong vấn đề này, định vị mình trong hội nhập quốc tế từ những tác phong nhỏ nhất trong việc đào tạo giáo dục, nghiên cứu rồi hãy nghĩ đến những việc lớn hơn”, ông Hiệp chia sẻ.
Bên dưới phòng hợp, phó hiệu trưởng của một trường học hóm hỉnh nói nhỏ rằng quyết tâm hội nhập dù yếu thế của các đại biểu là quá hợp lý. Cũng như cậu học trò kém vào lớp chọn có thể yếu đi cũng không đáng tiếc bằng việc không dám thử, cam chịu mà không dám thử để biết mình có tiến bộ hơn. Vì như ông nói, cứ liều thôi có gì để mất đâu mà phải tiếc.
Hoài Nam
Theo dân trí
Sinh viên tài chính trước nỗi lo thất nghiệp
Tình trạng sinh viên ra trường không tìm được việc làm đang có chiều hướng gia tăng. Những sinh viên ngành nghề từng được xem là "đắt hàng" nhất như ngân hàng, tài chính cũng lao đao tìm việc. Trong bối cảnh này, sinh viên cần phải làm gì?
Ngân hàng giảm nhân sự
Một sinh viên (SV) vừa tốt nghiệp loại khá ngành kế toán ngân hàng Trường ĐH tài chính - Marketing đã gửi hồ sơ cho một loạt ngân hàng có nhu cầu tuyển dụng, nhưng không nhận được bất cứ phản hồi nào. Cuối cùng SV này phải gửi hồ sơ đến các doanh nghiệp khác và chỉ có một số công ty bán hàng đa cấp gọi phỏng vấn.
T.T.N - SV năm cuối ngành tài chính ngân hàng Trường ĐH Ngân hàng TP.HCM có học lực khá, đã gõ cửa một loạt các ngân hàng như Đông Á, Vietcombank, Vietinbank... để xin thực tập nhưng không có ngân hàng nào tiếp nhận do không có nhu cầu hoặc số lượng đã đủ. T.T.N lo ngại: "Khi biết được tin tức về các ngân hàng đang trong thời kỳ cắt giảm nhân sự tụi em lo khi ra trường mình sẽ thất nghiệp. Nhiều anh chị khóa trước cũng phải làm trái ngành, thậm chí không xin được việc".
SV ngành tài chính - ngân hàng Trường ĐH Tài chính - Marketing trong giờ thực hành - Ảnh: M.D
Trước tình hình khó khăn chung của nền kinh tế, hàng loạt doanh nghiệp giải thể và ngưng hoạt động, trong đó có các doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng - bảo hiểm. Giám đốc nhân sự của một ngân hàng tại TP.HCM cho biết: "Hiện nay một loạt ngân hàng đang cắt giảm nhân sự. Nhu cầu phát triển phòng giao dịch trong 2 năm trở lại đây đã chững lại. Trong khi đó, số lượng SV ngành tài chính - ngân hàng mỗi năm tốt nghiệp cứ tăng lên trong khi nhu cầu thì có giới hạn". Vị giám đốc này cho biết, nếu như năm 2010 ngân hàng của ông tuyển dụng 800-1.000 nhân viên cho các vị trí thì năm nay chỉ còn tuyển khoảng 300.
Mất cân đối giữa cung và cầu
Trong kỳ thi tuyển sinh ĐH, CĐ năm 2012, nếu chỉ tiêu chung cho tất cả các ngành là 576.000 thì có tới 184.300 thuộc nhóm ngành kinh tế - tài chính - ngân hàng. Những năm vừa qua, các trường thi nhau mở ngành tài chính ngân hàng, kế toán, quản trị kinh doanh và luôn thu hút số lượng hồ sơ đăng ký cao gấp nhiều lần ngành khác, dẫn đến sự mất cân đối giữa nhu cầu tuyển dụng thực sự với số lượng SV ra trường mỗi năm.
Tháng 9 vừa qua, Viện Nhân lực ngành ngân hàng tài chính (BTCI) và Hay Group đã đưa ra kết quả khảo sát về cung - cầu nhân lực ngân hàng - tài chính. Trong năm 2013 sẽ có khoảng 32.000 SV chuyên ngành tài chính - ngân hàng ra trường nhưng chỉ có khoảng 20.000 người được các tổ chức tài chính, ngân hàng tuyển dụng. 12.000 SV còn lại sẽ phải làm công việc khác với chuyên môn của mình.
Cơ hội cho các nhân lực chất lượng cao, SV giỏi PGS-TS Ngô Hướng, Hiệu trưởng Trường ĐH Ngân hàng TP.HCM, nhận định: "Nhiều em có tâm lý lo thất nghiệp trong thời điểm này là đúng vì thực tế các ngân hàng đang siết chặt việc tuyển dụng. Hơn nữa, các ngân hàng lớn chỉ thích chọn SV tốt nghiệp từ các trường ĐH có uy tín và chuyên sâu trong nhóm ngành kinh tế - tài chính - ngân hàng". PGS-TS Trần Huy Hoàng, Trưởng khoa Ngân hàng Trường ĐH Kinh tế TP.HCM, cho biết: "Đây là thời điểm hàng loạt ngân hàng giảm nhân sự do có sự sáp nhập, tái cơ cấu, nâng cao chất lượng chuyên môn. Những người không đủ năng lực sẽ bị loại sau cuộc sàng lọc này. Điều đó cũng có nghĩa việc tuyển dụng nhân sự mới cũng chắt lọc, khắt khe hơn và chắc chắn chỉ những SV giỏi chuyên môn, ngoại ngữ và các kỹ năng mềm mới có cơ hội".
Theo tiến sĩ Nguyễn Thị Mỹ Dung, Trưởng khoa Tài chính ngân hàng Trường ĐH tài chính - Marketing, thời điểm này là cơ hội tốt để các ngân hàng lựa chọn được cho mình nguồn nhân lực chất lượng cao và cũng là lúc để các trường xem xét lại quá trình đào tạo của mình có đáp ứng yêu cầu thực tế hay không "Cũng không nên quá bi quan vì SV ngành tài chính - ngân hàng đã được học kiến thức tổng hợp về kinh tế nên vẫn có thể làm việc tại hàng ngàn tổ chức định chế tài chính trung gian chứ không nhất thiết phải ở ngân hàng. Và sau thời kỳ khó khăn, nếu các ngân hàng được phục hồi thì nhu cầu nhân lực ngành này vẫn luôn luôn lớn" - bà Dung nhận định.
Theo thanh niên
Trường ĐH Bách Khoa TPHCM: 55 năm năng động, sáng tạo Đi từ giảng dạy và nghiên cứu lý thuyết trong phòng thí nghiệm đến nghiên cứu ứng dụng rồi triển khai đại trà là cả một quá trình cam go nhưng tập thể giảng viên Trường ĐH Bách khoa - ĐH Quốc gia TPHCM đã chủ động chọn lựa Cuộc hành trình hơn nửa thế kỷ ấy đã làm nên một tên tuổi...