Giãn phế quản và biến chứng nguy hiểm
Các tổn thương nào dẫn đến GPQ?
Các bệnh như lao, viêm phổi vi khuẩn, virut, sởi, ho gà, dịch dạ dày hoặc máu bị hít xuống phổi, hít thở khói hơi độc, nhiễm khuẩn phế quản xảy ra nhiều lần… sẽ dẫn đến viêm hoại tử thành phế quản. Bệnh xơ hoá kén cũng là nguyên nhân lớn dẫn đến GPQ (thường gặp nhất ở châu Âu và Bắc Mỹ).
Bệnh lao hạch phế quản, hoặc dị vật rơi vào phế quản ở trẻ em, u phế quản hoặc sẹo xơ gây chít hẹp phế quản sau khi bị giập vỡ ở phế quản lớn do chấn thương lồng ngực… dẫn đến chít hẹp phế quản. Dưới chỗ phế quản chít hẹp, áp lực nội phế quản tăng lên và dịch tiết ùn tắc gây nên nhiễm khuẩn mạn tính tại chỗ rồi phát triển thành GPQ.
Do tổn thương xơ hoặc u hạt co kéo thành phế quản: lao phổi xơ, lao xơ hang, áp- xe phổi mạn tính, bệnh phế nang viêm xơ hoá. GPQ ở lao hậu tiên phát có thể phát triển theo 2 cơ chế sau: phổ biến nhất do nhu mô phổi bị phá hủy và xơ hoá dẫn đến co kéo và GPQ không hồi phục chít hẹp phế quản do xơ sẹo sau lao nội phế quản cục bộ.
GPQ cũng có thể phát triển trong rối loạn vận động nhung mao thứ phát của hen phế quản. Các trường hợp này vi khuẩn phát triển ở đường hô hấp dưới.
Rối loạn cơ chế bảo vệ phổi cũng gây ra GPQ như suy giảm miễn dịch dịch thể bẩm sinh hoặc mắc phải như, giảm chọn lọc lgA, lgM, lgG suy giảm miễn dịch mắc phải (thứ phát): do dùng thuốc gây độc tế bào, nhiễm HIV/AIDS, đau tủy, bệnh bạch cầu mạn tính.
GPQ vô căn có thể do rối loạn thanh lọc phổi phế quản, nhưng bị bỏ qua, thường gặp ở người lớn ở thùy dưới.
Video đang HOT
Các dị tật bẩm sinh ở cấu trúc phế quản cũng dẫn đến GPQ: GPQ lan toả cộng với viêm xoang cộng với phủ tạng đảo lộn (vị trí của tim chuyển sang bên phải) do rối loạn hoạt động của lông tuyến phế quản khuyết tật hoặc không có sụn ở phế quản nên phế quản phình ra khi hít vào, xẹp xuống khi thở ra. Khí phế quản phì đại do khuyết tật cấu trúc tổ chức liên kết ở thành phế quản kèm theo GPQ.
Áp xe phổi là một nguyên nhân dẫn tới giãn phế quản.
Các dấu hiệu bệnh cần được chú ý
Hầu hết các bệnh nhân GPQ đều có những điển hình lâm sàng như: ho dai dẳng, khạc đờm mủ hằng ngày khá nhiều, hơi thở có mùi rất hôi. Có thể ho ra máu (từ ít đến nhiều). Riêng GPQ ở trẻ em, ít gặp các trường hợp ho ra máu. Ở vùng phổi bị GPQ viêm phổi tái diễn nhiều lần hằng năm về mùa lạnh. Người bệnh sút cân, thiếu máu, yếu sức, hầu hết có biểu hiện đường hô hấp trên kèm theo như (viêm mũi, xoang chảy mủ). Triệu chứng đau ngực có thể là dấu hiệu sớm của nhiễm khuẩn phế quản ở vùng GPQ. Nếu GPQ lan rộng cả hai bên có thể làm người bị tím tái, khó thở… Nhiều trường hợp mắc phải căn bệnh này còn có ngón tay hình dùi trống. GPQ có thể kèm theo một vài bệnh sau: viêm xoang, viêm khớp dạng thấp, viêm đại tràng mạn tính, vô sinh, hội chứng móng tay vàng, luput ban đỏ hệ thống, viêm mạch với các xuất huyết ở da và tăng các phức hợp miễn dịch lưu hành…
Khi nghe phổi, thường xuyên có ran khu trú ở vùng có GPQ, thường là 2 đáy thổi. Nếu có tắc nghẽn phế quản kèm theo thì nghe có ran ngáy lan toả cả hai phổi hoặc có tiếng thở rít. Khi có ran ẩm hoặc ran nổ khu trú thường xuyên ở đáy phổi trong khi Xquang phổi lại bình thường, thì phải nghĩ đến GPQ. GPQ sau nhiễm khuẩn thường ở thùy trên. Nếu không được điều trị kịp thời, bệnh sẽ có các biến chứng nguy hiểm như viêm phổi, áp-xe phổi, tâm phế mạn. Những biến chứng này có thể gây tử vong, nhất là trên nền sức khỏe của người có bệnh mạn tính đi kèm, người già, trẻ em suy dinh dưỡng…
Nên tiêm phòng vaccin cúm, phế cầu để phòng bệnh
Muốn điều trị hiệu quả bệnh phải loại trừ mọi kích thích phế quản: thuốc lá, thuốc lào, khói bếp, khói bụi công nghiệp… Phát hiện và điều trị các bệnh nhiễm khuẩn ở răng, tai mũi họng. Phải phục hồi chức năng hô hấp: cần làm thường xuyên với tập thở, ho có điều khiển, gõ ngực cho đờm dễ dàng dẫn lưu ra ngoài, nằm đầu thấp với các tư thế khác nhau tùy theo vùng phế quản giãn nhiều lần trong ngày để dẫn lưu theo tư thế phun hít thuốc giãn nở phế quản kích thích &beta2 (salbutamol, terbutaline…). Khi bệnh nhân sốt, khạc nhiều đờm, đờm mủ, biến chứng nhiễm khuẩn nhu mô, màng phổi dùng các kháng sinh theo chỉ định của thầy thuốc. Nếu bệnh nhân quá nhiều đờm dịch ùn tắc phế quản hay các tổn thương gây tắc phế quản không đáp ứng tốt với thuốc phải tiến hành nội soi phế quản để hút dịch. Trường hợp GPQ cục bộ một bên phổi, khi nung mủ nhiều hoặc ho máu nặng, điều trị nội khoa thất bại cần phải phẫu thuật.
Để phòng bệnh hiệu quả, cần giữ gìn vệ sinh sạch sẽ hệ hô hấp. Nếu bị viêm phế quản, viêm mũi, xoang cần điều trị sớm và triệt để. Các vaccin phòng cúm, phế cầu cũng được khuyến cáo nên sử dụng, cần tiêm nhắc lại hằng năm trước mùa dịch dễ bùng phát khoảng 1 tháng. Trẻ em và người già, người hay mắc bệnh đường hô hấp rất cần được bảo vệ bằng vaccin.
Theo SKDS
Thuốc điều trị khò khè do virut ở trẻ
Khi không có các bất thường cấu trúc đường thở, nhiễm virut đường hô hấp cấp tính là nguyên nhân của phần lớn các trường hợp khò khè ở trẻ em, trong đó, hợp bào hô hấp là loại virut thường gặp nhất. Do thiếu những phương pháp điều trị đặc hiệu virut nên việc điều trị khò khè do virut ở trẻ em là không có sự khác biệt giữa các loại virut. Nói chung, các phương pháp điều trị này phần lớn được lựa chọn dựa trên kinh nghiệm của các thầy thuốc.
Thuốc giãn phế quản: Là nhóm thuốc được dùng rất phổ biến trong điều trị khò khè ở trẻ em, tuy nhiên, việc sử dụng chúng một cách thường quy vẫn còn nhiều tranh cãi và nhiều nghiên cứu đã không tìm ra những bằng chứng khách quan về lợi ích của chúng. Salbutamol (albuterol) là thuốc được sử dụng rộng rãi nhất cho chỉ định này, tuy nhiên, các bằng chứng y học về hiệu quả điều trị của thuốc không hằng định. Một số nghiên cứu quy mô nhỏ đã chỉ ra lợi ích của salbutamol đường khí dung trong điều trị viêm tiểu phế quản do virut ở trẻ em dưới 2 tuổi với việc cải thiện triệu chứng và nồng độ ôxy trong máu. Trong khi đó, một số nghiên cứu khác lại không tìm thấy tác dụng ổn định của salbutamol trong chỉ định này.
Phần lớn các nghiên cứu đều nhận thấy sự cải thiện triệu chứng bệnh xảy ra nhanh chóng sau dùng thuốc nhưng phần lớn những sự cải thiện này đều không kéo dài quá 60 phút. Tóm lại, lợi ích của salbutamol trong điều trị viêm tiểu phế quản là không hằng định, do đó, cần theo dõi sự đáp ứng của từng cá thể và ngưng sử dụng nếu không có sự cải thiện rõ rệt. Adrenalin (epinephrine) cũng là một thuốc giãn phế quản được sử dụng khá thường xuyên trong điều trị viêm tiểu phế quản do virut có tắc nghẽn đường thở. Thuốc có nhiều tác dụng phụ như gây nhịp tim nhanh, run chân tay, hạ kali máu, hạ đường máu..., do đó, không được sử dụng trong điều trị ngoại trú tại nhà.
Nhiễm virut đường hô hấp cấp tính là nguyên nhân của nhiều trường hợp khò khè ở trẻ.
Cũng giống với salbutamol, không có những bằng chứng rõ rệt chứng minh hiệu quả của adrenalin trong điều trị viêm tiểu phế quản do virut. So sánh với salbutamol khí dung, một số nghiên cứu đã nhận thấy ưu điểm vượt trội của adrenalin trong việc giảm mức độ khó thở và nguy cơ nhập viện. Tóm lại, những bằng chứng y học có được cho đến nay không ủng hộ việc sử dụng thường quy salbutamol và adrenalin trong điều trị viêm tiểu phế quản ở trẻ nhỏ, thay vào đó là sự lựa chọn sử dụng cho từng người bệnh. Việc điều trị chỉ nên tiếp tục nếu nhận thấy có sự cải thiện trên lâm sàng, ngược lại, khi không có sự cải thiện cần ngưng điều trị để tránh các tác dụng phụ.
Thuốc kháng cholinergic: Các dẫn xuất kháng cholinergic như ipratropium bromide... không được tìm thấy có hiệu quả trong điều trị viêm tiểu phế quản do virut. Một số nghiên cứu đánh giá hiệu quả của ipratropium đơn thuần hoặc phối hợp với salbutamol chỉ tìm thấy những sự cải thiện nhỏ của nồng độ ôxy máu nhưng không tìm thấy lợi ích rõ rệt và ổn định đối với diễn biến và tiên lượng của bệnh.
Kháng sinh: Mặc dù kháng sinh không có tác dụng đối với virut nhưng nhóm thuốc này vẫn được sử dụng khá phổ biến trong điều trị viêm tiểu phế quản ở trẻ em. Khảo sát ở nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy, 34 - 99% số trẻ bị viêm tiểu phế quản do virut vẫn được dùng kháng sinh. Lý do sử dụng kháng sinh thường do trẻ có sốt và rất khó để phân biệt nguyên nhân sốt là do nhiễm vi khuẩn hay nhiễm virut. Nguy cơ bội nhiễm vi khuẩn ở những trẻ bị viêm tiểu phế quản do virut dao động trong khoảng 0,2-26%. Nói chung, kháng sinh được khuyến cáo dùng trong điều trị viêm tiểu phế quản do virut chỉ khi có bằng chứng rõ ràng của việc bội nhiễm vi khuẩn. Trong trường hợp đó, việc sử dụng kháng sinh không có khác biệt so với những trường hợp không có viêm tiểu phế quản.
Thuốc kháng leukotriene: Các bằng chứng thực nghiệm ở động vật cho thấy các leukotriene được giải phóng khi có tình trạng nhiễm virut cũng như phản ứng viêm và tình trạng tăng tính phản ứng đường thở. Điều này gợi ý các thuốc kháng leukotriene có thể có một vai trò trong điều trị viêm tiểu phế quản cấp do virut. Nhiều nghiên cứu được tiến hành trong những năm qua đã phần nào khẳng định hiệu quả của tiếp cận điều trị này trong thực tế.
Theo những nghiên cứu này, montelukast (một dẫn xuất kháng leukotriene), giúp tăng số ngày không triệu chứng và giảm triệu chứng ho về ban ngày so với giả dược khi được dùng điều trị kéo dài trong và sau đợt cấp của viêm tiểu phế quản do virut. Nói chung, hiệu quả của montelukast ở trẻ nhỏ rõ rệt hơn so với các trẻ lớn, điều này được cho là do sự khác biệt trong sản xuất leukotriene liên quan đến tuổi. Hiện nay, vai trò dự phòng viêm tiểu phế quản khi được dùng trước mùa virut của các thuốc kháng leukotriene là vấn đề vẫn đang cần được nghiên cứu tìm lời giải.
Theo Sức khỏe đời sống
Biến chứng nguy hiểm của bệnh bướu cổ basedow Nhiều người cho rằng bướu cổ (basedow) là bệnh lành tính nên chữa trị không đến nơi đến chốn. Tuy nhiên, bệnh basedow không điều trị kịp thời sẽ gây biến chứng, có thể tử vong. Suýt mất mạng vì nhầm ung thư tuyến giáp là basedow Theo thống kê tại bệnh viện Nội tiết trung ương, bênh bướu cô chiếm 40% trên...