Giải quyết thế nào sự “tham vọng” của phụ huynh và nặng nề trong dạy học?
Trở ngại lớn trong triển khai vì sự phát triển bền vững trong giáo dục là vấn đề “quá tải” trong giáo dục phổ thông- vấn đề đã được ngành giáo dục nhận diện, xã hội phản ánh nhưng không dễ giải quyết.
Do mong muốn quá nhiều ở con và do áp lực cạnh tranh, nhiều bậc cha mẹ bắt con tham gia quá nhiều chương trình học tập ngoài nhà trường.
Cắt giảm nội dung, thời lượng học, thay đổi kiểm tra … chưa phải là những giải pháp căn bản
GS.TS. Nguyễn Văn Minh, Hiệu trưởng trường ĐH Sư phạm Hà Nội cho biết, giáo dục vì sự phát triển bền vững là xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển giáo dục Việt Nam trong tương lai gần.
Để bảo đảm phát triển bền vững, nhiều quốc gia đã không ngừng đổi mới giáo dục để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trang bị cho các thế hệ tương lai nền tảng văn hóa vững chắc và năng lực thích ứng cao trước mọi biến động của thiên nhiên và xã hội.
Đổi mới giáo dục vì sự phát triển bền vững, trong đó có giáo dục phổ thông đã trở thành nhu cầu cấp thiết và xu thế mang tính toàn cầu. Trở ngại lớn của tiến trình đổi mới này là vấn đề “quá tải” trong giáo dục phổ thông.
Vấn đề này đã được ngành giáo dục nhận diện và xã hội phản ánh ở nhiều góc cạnh nhưng không dễ giải quyết. Cắt giảm nội dung, thời lượng học và điều chỉnh số bài kiểm tra, số kì thi chưa phải là những giải pháp căn bản. Để đưa ra giải pháp đúng, cần hiểu những nguyên nhân.
Theo GS. Nguyễn Minh Thuyết, nguyên nhân không chỉ ở chương trình, nội dung giáo dục mà còn ở phương pháp giáo dục và phương thức quản lí giáo dục, cụ thể:
- Nội dung giáo dục còn nặng về lí thuyết; nhiều nội dung không không thiết thực, vừa khó học, dễ quên, vừa không gây được hứng thú cho học sinh.
- Phương pháp dạy học còn nặng về thuyết trình, không phát huy được tính tích cực của học sinh trong việc khám phá, thực hành và vận dụng kiến thức, khiến học sinh thiếu hứng thú học tập.
- Thời lượng học được phân bổ đồng loạt đối với tất cả các trường trong cả nước, nhiều khi chưa tương thích với nội dung học tập; trong khi đó, giáo viên không được quyền chủ động bố trí thời lượng dạy học phù hợp với bài học, học sinh và điều kiện thực tế của trường, lớp mình.
- Học sinh phải đối phó với nhiều kì thi, đặc biệt là thi chuyển cấp và thi tốt nghiệp THPT, do đó phải học nhiều. Hơn nữa, do mong muốn quá nhiều ở con và do áp lực cạnh tranh, nhiều bậc cha mẹ bắt con tham gia quá nhiều chương trình học tập ngoài nhà trường. Điều này dẫn đến hiện tượng dạy thêm học thêm tràn lan; học sinh không còn thời nghỉ ngơi, vì vậy trở nên mệt mỏi và áp lực.
3 giải pháp đổi mới về nội dung, phương pháp giáo dục
GS.TS. Nguyễn Văn Minh, Hiệu trưởng trường ĐH Sư phạm Hà Nội cho biết, đổi mới căn bản nhất trong giáo dục phổ thông là đổi mới về mục tiêu giáo dục theo Nghị quyết Quốc hội: ” …kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hòa đức, trí, thể, mĩ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh “.
Mục tiêu mới của Chương trình GDPT 2018 triển khai từ năm học 2020 – 2021 mở đường cho các đổi mới toàn diện về nội dung, phương pháp giáo dục nhằm giúp học sinh thay đổi nhận thức và hành vi; hướng đến các hành động tích cực trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.
Theo đó, GS.TS. Nguyễn Văn Minh, Hiệu trưởng trường ĐH Sư phạm Hà Nội đưa ra 3 giải pháp đổi mới căn bản về nội dung, phương pháp giáo dục. Cụ thể:
Video đang HOT
Giáo dục STEM là phương pháp giáo dục tích hợp giúp học sinh
Giáo dục tích hợp
Giáo dục tích hợp là định hướng giáo dục giúp học sinh phát triển khả năng huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng,…thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết có hiệu quả các vấn đề trong học tập và trong cuộc sống, được thực hiện ngay trong quá trình lĩnh hội tri thức và rèn luyện kĩ năng.
Đây là tiếp cận giáo dục cơ bản nhằm khắc phục thực trạng nội dung giáo dục còn nặng về lí thuyết; nhiều nội dung không thiết thực, vừa khó học, dễ quên.
Mức độ cao nhất của dạy học tích hợp là hình thành các môn học tích hợp. Chương trình GDPT 2018 đã tăng cường tích hợp nhiều nội dung trong cùng một môn học, xây dựng một số môn học tích hợp ở cấp Tiểu học, THCS; yêu cầu tích hợp được thể hiện cả trong mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục và đánh giá kết quả giáo dục.
Đối với từng môn học, hoạt động giáo dục, cần lồng ghép các mục tiêu, nội dung giáo dục về phát triển bền vững trong chương trình nhà trường , đặc biệt ở nội dung giáo dục của địa phương và hoạt động giáo dục trải nghiệm, hướng nghiệp. Đồng thời, sự tích hợp này cần tăng cường các nội dung giáo dục khác theo các trụ cột của phát triển bền vững như: Về kinh tế, sản xuất và tiêu dùng bền vững; Về văn hóa – xã hội, quyền con người, bình đẳng giới, công bằng xã hội, chiến tranh và hòa bình, xã hội học tập, công dân toàn cầu; Về môi trường, quản lý bền vững tài nguyên nước, bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học…
Một phương thức tích hợp cụ thể nhằm thực hiện có hiệu quả giáo dục Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật và Toán học (STEM), giáo dục STEM đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn triển khai trong giáo dục phổ thông từ năm học 2020 – 2021.
Nội dung bài học theo chủ đề STEM gắn với việc giải quyết tương đối trọn vẹn một vấn đề, trong đó học sinh được tổ chức tham gia học tập một cách tích cực, chủ động và biết vận dụng kiến thức vừa học để giải quyết vấn đề đặt ra; thông qua đó góp phần hình thành phẩm chất năng lực cho học sinh.
Giáo dục phân hóa đòi hỏi phải giảm sĩ số trong một lớp học để giáo viên đổi mới phương pháp dạy học.
Giáo dục phân hóa
Giáo dục phân hóa là định hướng giáo dục phù hợp với các đối tượng học sinh khác nhau, nhằm phát triển tối đa tiềm năng vốn có của mỗi học sinh dựa vào đặc điểm tâm – sinh lí, khả năng, nhu cầu, hứng thú và định hướng nghề nghiệp khác nhau của học sinh.
GS Nguyễn Văn Minh cho rằng, đây là tiếp cận giáo dục cơ bản nhằm đảm bảo nền giáo dục công bằng, toàn diện và thúc đẩy các cơ hội học tập cho tất cả mọi người; không để ai bị bỏ lại phía sau. Chương trình GDPT 2018 đã được xây dựng theo định hướng dạy học phân hóa, biểu hiện ở hai mức độ:
- Phân hóa trong (phân hóa vi mô, phân hóa nội tại) thể hiện chủ yếu qua định hướng về phương pháp giáo dục, nhấn mạnh tính tích cực hóa hoạt động của người học, khuyến khích học sinh tích cực tham gia các hoạt động học tập, tự phát hiện sở trường, nguyện vọng của bản thân, và qua định hướng về đánh giá kết quả giáo dục, nhấn mạnh bảo đảm sự tiến bộ của từng học sinh.
Yêu cầu phân hóa trong đòi hỏi phải giảm sĩ số trong một lớp học để giáo viên đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá phù hợp với các đối tượng học sinh khác nhau, từ đó có biện pháp hỗ trợ phù hợp với từng học sinh.
- Phân hóa ngoài (phân hóa vĩ mô, phân hóa về mặt tổ chức) thể hiện ở các môn học tự chọn, các chủ đề, chuyên đề học tập lựa chọn theo nguyện vọng và định hướng nghề nghiệp. Yêu cầu phân hóa ngoài đòi hỏi nhà trường phải tăng số phòng học để sắp xếp lớp học một cách linh hoạt cho các môn học lựa chọn và các chuyên đề học tập.
Cả hai yêu cầu phân hóa đều đòi hỏi tăng số lượng giáo viên. Đó là những khó khăn không nhỏ trong việc thực hiện dạy học phân hóa.
Học sinh An Giang tham gia lắp ráp máy khử trùng diẹt khuẩn tự động phòng chống Covid- 19
Giáo dục thông qua hoạt động tích cực của người học
Các môn học và hoạt động giáo dục trong nhà trường cần áp dụng các phương pháp tích cực hóa hoạt động của học sinh.
Trong đó giáo viên đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn hoạt động cho học sinh, tạo môi trường học tập thân thiện và những tình huống có vấn đề để khuyến khích học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động học tập, tự phát hiện năng lực, nguyện vọng của bản thân, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, phát huy tiềm năng và những kiến thức, kĩ năng đã tích lũy được để phát triển.
Các hoạt động học tập của học sinh bao gồm hoạt động khám phá vấn đề, hoạt động luyện tập và hoạt động thực hành, được thực hiện với sự hỗ trợ của thiết bị dạy học và các ứng dụng công nghệ thông tin.
Các hoạt động học tập nói trên được tổ chức trong và ngoài khuôn viên nhà trường thông qua một số hình thức chủ yếu sau: học lí thuyết; thực hiện bài tập, thí nghiệm, trò chơi, đóng vai, dự án nghiên cứu; tham gia xêmina, tham quan, cắm trại, đọc sách; sinh hoạt tập thể, hoạt động phục vụ cộng đồng.
Tùy theo mục tiêu, tính chất của hoạt động, học sinh được tổ chức làm việc độc lập, làm việc theo nhóm hoặc làm việc chung cả lớp nhưng phải bảo đảm mỗi học sinh được tạo điều kiện để tự mình thực hiện nhiệm vụ học tập và trải nghiệm thực tế.
Học sinh học nghề hệ 9
Thực học, thực nghiệp, tránh gây áp lực kiểm tra lên học sinh
Từ phân tích trên, GS Nguyễn Văn Minh khuyến nghị với Bộ GD-ĐT: Nhìn từ góc độ đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục phổ thông, ngành giáo dục cần triển khai đồng bộ các biện pháp giáo dục tích hợp, giáo dục phân hóa và giáo dục thông qua hoạt động tích cực người học.
Để chuẩn bị các điều kiện thực hiện có hiệu quả các biện pháp trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường sư phạm, các trường phổ thông và các bên liên quan trước hết cần thực hiện với quyết tâm cao nhất Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 18/6/2018 về việc đẩy mạnh thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông.
Trong đó, chú ý các nhiệm vụ gắn với đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục phổ thông nhằm phát triển nền giáo dục có chất lượng, công bằng, toàn diện và thúc đẩy các cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người, cụ thể:
Giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục là những người trực tiếp thực hiện công cuộc đổi mới GDPT; cần tạo động lực, phân cấp quản lí và trao quyền tự chủ trên thực tế cho cơ sở giáo dục phát triển và tổ chức chương trình nhà trường; thực thi quyền lựa chọn nội dung, phương pháp giáo dục của giáo viên nhằm đáp ứng yêu cầu cần đạt của Chương trình GDPT 2018.
Tăng cường đào tạo và bồi dưỡng giáo viên năng lực dạy học tích cực, dạy học phân hóa và dạy học tích hợp, trong đó có giáo dục STEM và lồng ghép GDVSPTBV trong các môn học, hoạt động giáo dục.
Điều chỉnh, sắp xếp cơ sở vật chất, thiết bị dạy học và huy động các nguồn lực trong xã hội nhằm đảm bảo sĩ số các lớp học ít nhất phải bảo đảm quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo: tối đa 35 học sinh/lớp ở cấp tiểu học và 45 học sinh /lớp ở các cấp THCS, THPT.
Thực hiện hiệu quả các phương pháp và hình thức kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh; thực hiện quan điểm đánh giá vì học tập và đánh giá là học tập bên cạnh các hoạt động đánh giá kết quả học tập; đồng thời bảo đảm quyền tự chủ trong tổ chức tuyển sinh của các cơ sở giáo dục đại học. Qua đó, khuyến khích nền nếp thực học, thực nghiệp, tránh gây áp lực kiểm tra lên học sinh.
Sức bật mới trong tuyển sinh ngành Sư phạm
Với cơ chế chính sách về ngưỡng bảo đảm chất lượng đầu vào và học phí, bức tranh tuyển sinh ngành sư phạm đang ngày càng khởi sắc và có sức bật mới. Số thí sinh đăng ký xét tuyển vào các ngành đào tạo GV không ngừng tăng.
Ngành sư phạm vẫn có sức hút riêng. Ảnh minh họa: ITN
Qua thời chuột chạy cùng sào...
GS.TS Nguyễn Văn Minh- Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Hà Nội khẳng định, quy định ngưỡng bảo đảm chất lượng đầu vào với ngành đào tạo GV là chủ trương đúng, góp phần nâng cao chất lượng nguồn tuyển. Hiện nay, toàn ngành Giáo dục chú trọng nâng cao chất lượng GD- ĐT, trọng tâm là thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện theo Nghị quyết 29 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Một trong những yếu tố quyết định thành công của công cuộc đổi mới GD-ĐT là đội ngũ thầy, cô giáo. Trên tinh thần đó, Bộ GD&ĐT đã và đang triển khai đồng thời hai việc: Bồi dưỡng GV hiện có để đáp ứng Chương trình, sách giáo khoa GDPT mới và chuẩn bị nguồn nhân lực để có thể thực hiện tốt đổi mới GD-ĐT. "Đầu vào không phải tất cả, nhưng đó là một trong những điều kiện cần để chúng ta có cơ sở, để HS có năng lực sẽ được làm thầy, cô giáo" - GS.TS Nguyễn Văn Minh nói.
Cũng theo GS.TS Nguyễn Văn Minh, từ khi đặt ra ngưỡng bảo đảm chất lượng đầu vào đối với ngành đào tạo GV đến nay, số thí sinh có điểm cao, thậm chí rất cao vẫn đăng ký vào trường sư phạm. Đơn cử, tại Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, công tác tuyển sinh đang có chiều hướng tốt. Có những năm ngành Sư phạm Toán điểm chuẩn lên đến hơn 29 điểm. Nhiều HS giỏi quốc gia cũng đăng ký vào trường; đặc biệt năm 2019, có thí sinh đạt Huy chương Vàng Toán quốc tế đã vào học Trường ĐH Sư phạm Hà Nội.
"Năm nay, ngoài thí sinh giỏi đến từ trường THPT chuyên các tỉnh, thành phố, có rất nhiều thí sinh được giải quốc gia đăng ký vào trường. Điều đó cho thấy, bức tranh tuyển sinh của ngành sư phạm cũng có sức hút riêng. Qua đây cũng tác động đến hệ thống các trường đào tạo GV và đòi hỏi nhà trường phải thay đổi để thích ứng với thời cuộc", GS.TS Nguyễn Văn Minh trao đổi.
Làm tốt "đầu vào" và "đầu ra"
Là chuyên gia về tư vấn tuyển sinh, hướng nghiệp, PGS.TS Phạm Mạnh Hà - Phó trưởng khoa các khoa học Giáo dục, Trường ĐH Giáo dục (ĐH Quốc gia Hà Nội) nhận định: Ngành sư phạm đang phải cạnh tranh khốc liệt với nhiều ngành khác, nhất là một số ngành "hot".
Điều này ít nhiều chi phối lựa chọn ngành nghề của thí sinh, nhất là HS giỏi. Thực tế cho thấy, Chính phủ, Bộ GD&ĐT đã có nhiều chính sách hỗ trợ đối với SV sư phạm. Đây là yếu tố để thu hút người giỏi vào ngành Giáo dục.
Theo PGS.TS Phạm Mạnh Hà, thời gian gần đây, khi những trường công lập được Nhà nước đầu tư theo hướng chất lượng cao, cùng với hệ thống các trường tư thục phát triển đã và đang tạo ra thị trường lao động năng động, sôi nổi. Đây cũng là yếu tố để thu hút thí sinh vào ngành sư phạm. "Mùa tuyển sinh năm nay, nhiều ngành sư phạm sẽ có điểm chuẩn cao, chẳng hạn như: Sư phạm Toán, tiếng Anh, Giáo dục tiểu học...
Đây là những ngành "hot", không bao giờ thiếu nguồn tuyển sinh" - PGS.TS Phạm Mạnh Hà chia sẻ, đồng thời viện dẫn: Như Trường ĐH Giáo dục (ĐH Quốc gia Hà Nội), sau khi đổi mới tích cực về chất lượng đào tạo, tỷ lệ đầu vào và đầu ra khá tốt. Số SV ra trường có việc làm cao, góp phần thu hút nhiều thí sinh đăng ký xét tuyển vào trường.
PGS.TS Phạm Mạnh Hà "bật mí", theo thống kê chưa đầy đủ, riêng ngành Giáo dục tiểu học có khoảng 1.500 hồ sơ đăng ký xét tuyển, trong khi đó chỉ tiêu tuyển sinh của nhà trường là hơn 100 SV. Điều đó cho thấy, công tác tuyển sinh của ngành sư phạm không như nhiều người vẫn nghĩ "chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm".
Đồng quan điểm, cô Nguyễn Thị Minh Thúy - Hiệu trưởng Trường THCS & THPT Nguyễn Siêu (Hà Nội) cho hay: Có nhiều HS đam mê ngành sư phạm. Tại Trường Nguyễn Siêu, hầu như năm nào cũng có HS đăng ký xét tuyển vào Trường ĐH Sư phạm và mong muốn được trở thành GV. "Mấy năm gần đây, ngành sư phạm có nhiều khởi sắc, chất lượng nguồn tuyển từng bước được cải thiện. Các cơ chế, chính sách của Nhà nước, Bộ GD&ĐT như "điểm sàn", chính sách về học phí, sinh hoạt phí và một số ưu đãi khác với giáo sinh đã góp phần thu hút thí sinh đăng ký theo học ngành này" - cô Thúy nhấn mạnh, đồng thời tin tưởng bức tranh tuyển sinh của ngành sư phạm sẽ tươi sáng.
Tuy nhiên, theo cô Thúy, ngoài cơ chế chính sách học phí, cần làm tốt "hai đầu": Đầu vào và đầu ra. Với đầu vào, chúng ta đã có ngưỡng bảo đảm chất lượng (hay còn gọi là "điểm sàn"), còn đầu ra - nếu làm tốt sẽ thúc đẩy sự phát triển ngành sư phạm. "Nhiều em có đam mê, và mong muốn được là GV, nhưng cơ chế "đầu ra", cơ hội việc làm và các chế độ đãi ngộ khác cho nhà giáo khiến các em lựa chọn ngành nghề khác. Vì thế, để giải quyết bài toán này, cần có cơ chế ưu đãi cho GV, để các em nhận thấy đây là ngành thực sự "hot" và quyết tâm theo học" - cô Thúy trao đổi.
Theo cô Nguyễn Thị Minh Thúy, gốc của vấn đề là tạo điều kiện cho ngành Giáo dục được phát triển như thế nào? Vì vậy, thu hút người học vào ngành sư phạm thông qua đầu tư và quan tâm đến đội ngũ GV hiện tại là việc nên làm.
Hết thời "chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm" Trong bối cảnh các trường đều gặp khó khăn chung trong công tác tuyển sinh, ngành sư phạm vẫn có sức hút riêng. Điều này cho thấy nghề giáo có vị thế nhất định trong xã hội. Rất nhiều thí sinh muốn được tư vấn vào ngành sư phạm trong ngày hội tư vấn tuyển sinh hướng nghiệp 2019. Ảnh: S.Đ Cùng với...