Dùng kháng sinh đúng cách để không bị ‘nhờn thuốc’
Thuốc kháng sinh không còn xa lạ gì với cuộc sống của chúng ta, chúng đóng vai trò quan trọng trong việc điều trị các bệnh lây nhiễm.
Thế nhưng, nhiều người đang quá lạm dụng và sử dụng thuốc kháng sinh một cách không hợp lý, khiến cho bệnh không những trở nên lâu khỏi mà còn có thể đưa đến nhiều tác dụng phụ khác ảnh hưởng đến sức khỏe.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết, kháng thuốc kháng sinh đang là một trong những mối đe dọa lớn đối với sức khỏe cộng đồng và trở thành mối lo ngại với từng gia đình
Cụ thể, tình trạng kháng thuốc kháng sinh sẽ diễn ra khi cơ thể sử dụng quá nhiều thuốc kháng sinh, khiến vi khuẩn thay đổi và không còn có tác dụng với việc dùng thuốc kháng sinh để chữa trị lây nhiễm do chúng gây ra
Cũng theo WHO, việc hiểu rõ và sử dụng thuốc kháng sinh như thế nào là đúng có vai trò quan trọng để làm giảm tình trạng kháng thuốc, tuy nhiên, lại chưa mấy ai làm được điều này
Rất nhiều trường hợp khi thấy ho, sốt, chảy nước mũi do cảm cúm, cảm lạnh, viêm họng do virút, thậm chí là ho do dị ứng thời tiết hoặc khói bụi… là tự dùng thuốc kháng sinh mà không hỏi ý kiến bác sĩ
Trong khi đó, các bác sĩ đã chứng minh rằng, thuốc kháng sinh chỉ có t.iêu d.iệt được vi khuẩn chứ không hiệu quả trên virút. Do đó không thể dùng kháng sinh để trị cúm hoặc các bệnh cảm, ho thông thường khác do virút gây nên
Bên cạnh việc sử dụng thuốc kháng sinh không đúng bệnh thì không ít người bệnh có thói quen tự ý mua thuốc kháng sinh về dùng, sau đó tăng, giảm liều lượng, thời gian điều trị một cách vô khoa học
Những người này thường mua kháng sinh về dùng 2-3 ngày thấy bệnh thuyên giảm, hết sốt, hết triệu chứng của bệnh thì ngừng thuốc, không uống tiếp nữa và cho rằng nếu uống tiếp sẽ hại người, sẽ bị tác dụng phụ…
Một số nhỏ những người khác thậm chí còn thay đổi các loại thuốc kháng sinh một cách thường xuyên. Trong khi đó, một đợt điều trị bằng thuốc kháng sinh phải kéo dài từ 5-7 ngày, thay đổi thuốc thường xuyên trong thời gian ngắn sẽ khiến cho cơ thể kháng thuốc
Kháng sinh mạnh thường là những loại kháng sinh thế hệ mới, đắt t.iền được chỉ định trong các trường hợp bệnh n.hiễm t.rùng nặng, nguy hiểm…và trên một số loại vi khuẩn đã nhờn với kháng sinh thế hệ cũ
Tuy nhiên, nhiều người mang tâm lý mong bệnh chóng khỏi nên có thói quen thường xuyên dùng kháng sinh mạnh
Do vậy, với các trường hợp chỉ sốt, ho thông thường mà người bệnh đã dùng tới các kháng sinh mạnh sẽ gây lãng phí và góp phần làm tăng khả năng vi khuẩn kháng thuốc
Có thể do tính thích “ăn sẵn” nên nhiều người thường hay dùng chung thuốc kháng sinh với người khác. Tuy nhiên, phải nhớ rằng, người khác có thể có những nhiễm khuẩn khác nhau và không thể dùng cùng loại kháng sinh như mình, điều này có thể khiến cơ thể kháng thuốc
Mỗi kháng sinh chỉ có thể kháng lại một vài loại vi khuẩn. Nếu dùng đúng loại đặc hiệu, chỉ vài ngày bệnh sẽ thuyên giảm, thời gian dài nhất cho một đợt điều trị kháng sinh là 7 – 10 ngày
Video đang HOT
Tuy nhiên, nếu dùng không đúng kháng sinh đặc hiệu trong một thời gian dài, bệnh chẳng những sẽ không thuyên giảm mà vi khuẩn gây bệnh trong cơ thể sẽ quen dần và sinh ra các chủng kháng thuốc
Ngoài vấn đề kéo dài thời gian dùng thuốc thì nhiều người lại dùng kháng sinh không đủ liều và không đủ thời gian điều trị
Cụ thể, sau khi dùng khoảng 5 – 6 ngày bệnh sẽ hết căn bản triệu chứng nhưng phải dùng thuốc thêm vài ngày nữa thì các vi khuẩn mới thực sự bị t.iêu d.iệt và bệnh sẽ khỏi hẳn
Thế nhưng, có không ít trường hợp cứ ngỡ là khỏi hẳn và tự ý ngưng thuốc khi thời gian điều trị còn rất ngắn. Nếu dùng dang dở, vi khuẩn không bị trị tận gốc, dễ tái nhiễm, nhờn thuốc, sinh ra chủng kháng thuốc
Việc làm dụng kháng sinh một cách vô khoa học cũng là “căn bệnh” nhiều người mắc phải. Một trong những mặt trái của thuốc kháng sinh là sẽ gây hại với các vi khuẩn có lợi nếu người dùng quá lạm dụng vào nó
Vì vậy, hãy dùng kháng sinh theo hướng dẫn của bác sĩ, nếu lạm dụng vào thuốc kháng sinh thì nó sẽ t.iêu d.iệt cả khuẩn có lợi có trong đường ruột làm cho sức đề kháng của cơ thể sẽ yếu đi
Chúng ta đều không biết rằng, sử dụng kháng sinh, đặc biệt là trong giai đoạn còn trẻ dễ làm tăng nguy cơ gây bệnh hen suyễn, bệnh viêm mũi màng kết và Eczema ở t.rẻ e.m nhóm t.uổi đi học
Mặt khác, hen suyễn lại là căn bệnh có thể đe dọa đến tính mạng nếu không được quản lý và điều trị kịp thời, đúng cách, nhất là khi tiếp xúc quá nhiều chất kích thích
Do vậy, mỗi khi quyết định cho con dùng kháng sinh, các bậc phụ huynh cần thận trọng, mua đúng loại thuốc, không được mua kháng sinh loại mạnh và phải sử dụng theo hướng dẫn của bác sĩ để không gây ảnh hưởng đến sức khỏe của con trẻ trong tương lai
Việc lạm dụng kháng sinh trong thời gian dài còn có thể khiến người bệnh tăng nguy cơ ung thư tuyến t.iền liệt, ung thư vú, ung thư thận và một số căn bênh ung thư khác cao gấp 1,5 lần so với người không lạm dụng kháng sinh
Sông Hương (Tổng hợp)
Theo anninhthudo
Kiến thức cần biết trước mùa bệnh sởi
Cùng tìm hiểu, để nhận biết, nhận thức và hình dung được hậu quả để lại nếu không được nhận thức đúng đắn.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), dịch sởi hiện đang gia tăng trên toàn cầu. Từ cuối năm 2018 đến đầu năm 2019, đã có hơn 180 quốc gia xuất hiện bệnh sởi, trong đó 11 quốc gia ở khu vực Đông Nam Á. Thậm chí dịch sởi đã quay trở lại một số nước đã từng khống chế thành công hoặc triệt tiêu căn bệnh này như Italy, Ukraine...
Người ta đã phát hiện ra bệnh Sởi như thế nào?
Được phát hiện vào năm 1757 nhưng mãi đến năm 1963, Y học mới tìm ra vaccine ngừa sởi. Trong suốt thời gian đó, ước lượng đã có 249 triệu người trên toàn thế giới c.hết vì căn bệnh này. Trong 2 tháng đầu năm 2019, có 43 tỉnh thành ở Việt Nam phát hiện bệnh nhân nhiễm sởi.
Từng là đại dịch toàn cầu
Theo các tài liệu cổ còn lưu giữ, năm 804 sau Công nguyên, tại thành phố Mashsad, Vương quốc Ba Tư (Iran ngày nay) đã xảy ra một trận đại dịch sởi, hại c.hết gần 60.000 người. Năm 1848, một đợt bùng phát sởi ở Hawaii đã hại c.hết 1/3 số người sống trên đảo. Năm 1875, dịch sởi xảy ra ở đảo quốc Fiji cũng đã quét sạch 1/3 dân số chỉ trong 4 tháng. Năm 1916, tại nước Pháp có 12.000 người c.hết vì bệnh sởi và 3 trong số 4 người c.hết là t.rẻ e.m dưới 5 t.uổi còn nếu kể thêm thì trong suốt cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914-1918, đã có khoảng 48.000 binh lính của cả hai phía Đồng minh và Đức c.hết vì các biến chứng của sởi (nhưng được cho là sốt phát ban - hay còn gọi là bệnh chấy rận vì lúc ấy không ai tin rằng người lớn cũng có thể bị sởi).
Năm 1951, dịch sởi tấn công đảo Greenland, Đan Mạch đã khiến trong số 4.262 cư dân, chỉ có 5 người thoát khỏi nhưng nhờ trận dịch này, các nhà khoa học đã thử áp dụng biện pháp tiêm gamma globulin - là một loại protien giàu kháng thể cho người bệnh. Kết quả là tỷ lệ t.ử v.ong vì những biến chứng của sởi giảm đáng kể nhưng làm thế nào để không bị nhiễm sởi thì vẫn chưa ai tìm ra. Gần đây, tại Mỹ, sau gần 20 năm công bố loại trừ bệnh sởi thì ngay từ những ngày đầu năm 2019, Cơ quan Kiểm soát dịch bệnh Mỹ (CDC) đã ghi nhận các ổ dịch sởi ở một số thành phố.
Không thể coi thường bệnh sởi
Hiện tại cũng là chuẩn bị bước vào giai đoạn đầu năm 2020 nên chúng ta cần chuẩn bị sẵn cho công tác phòng chống dịch Sởi. Theo quy luật, sởi thường xuất hiện vào mùa đông xuân, đa số tại các thành phố lớn, nơi sự tiếp xúc, chung đụng giữa người lành và người bệnh diễn ra thường xuyên. Sởi là bệnh rất dễ lây lan, nếu trong gia đình có 1 người nhiễm bệnh thì 90% các thành viên khác cũng có thể nhiễm.
Sởi thường tự khỏi giống như các bệnh nhiễm vi rút thông thường tuy nhiên các n.hiễm t.rùng sau sởi mới là một "bài toán" cho bác sĩ và người bệnh do sau sởi, hệ thống miễn dịch bị tổn thương trầm trọng.
Cách phát hiện sởi
Dấu hiệu sởi trẻ sơ sinh.
Trong vụ dịch, khoảng 10 tới 12 ngày sau khi tiếp xúc với người bị sởi, có biểu hiện:
- Sốt, ho khan, chảy nước mũi
- Mắt đỏ, khó chịu với ánh sáng
- Xuất hiện các nốt nhỏ ở giữa có màu xanh trắng bên trong miệng (vùng gò má). Ngoài ra trên thân người phát những đốm đỏ lớn, phẳng, nối với nhau.
- Ban đỏ nhỏ li ti lúc đầu xuất hiện ở mặt, sau đó lan xuống cổ rồi toàn thân
Ngoài các dấu hiệu chung nêu trên, với trẻ sơ sinh, trong giai đoạn ủ bệnh, dấu hiệu bé bị sởi cũng gần giống như bị sốt phát ban. Các dấu hiệu lên sởi ở trẻ sơ sinh đặc trưng bao gồm:
-Bệnh thường có thời gian ủ trong một tuần, có biểu hiện quấy khóc do nhức mỏi các cơ bắp ở trẻ.
-Trong thời gian ủ bệnh, trẻ sốt cao, biếng ăn, bỏ bú.
-Trẻ có thể bị tiêu chảy hoặc nôn trớ.
-Ngoài ra, một số biểu hiện bệnh sởi ở trẻ sơ sinh phổ biến còn là hiện tượng ho, chảy nước mũi, có thể đau mắt đỏ.
Diễn biến bệnh sởi
Bệnh diễn biến trong 7-10 ngày, người bệnh hết sốt và nốt sởi bay dần cũng theo trình tự mọc, khi bay hết sẽ để lại các vết thâm trên da rất đặc trưng gọi là "vằn da hổ". Bệnh thường có tiến triển tốt nếu không có biến chứng
Các biến chứng n.hiễm t.rùng sau sởi thường rất nặng, nhất là t.rẻ e.m do vi rút
-Viêm tai giữa: 10% số trẻ bị sởi có thể viêm tai giữa
-Viêm phổi: 5% có thể viêm phổi
-Tiêu chảy
-Khô loét giác mạc mắt
-Một vài trường hợp trẻ bị viêm não sau sởi, đặc biệt ở t.rẻ e.m suy dinh dưỡng, 1/1000.
Xử trí ra sao?
Cần chú ý phát hiện sớm các biểu hiện của bệnh sởi để đi khám. Điều trị bệnh sởi chủ yếu là điều trị triệu chứng, kết hợp với chăm sóc đúng cách. Các biện pháp được áp dụng bao gồm:
- Hạ sốt: dùng thuốc hạ sốt thông thường (paracetamol) khi nhiệt độ từ 38,5 độ C trở lên.
- Giảm viêm nhiễm mũi họng
- Thuốc kháng sinh chỉ dùng khi có bội nhiễm, biến chứng theo đơn của bác sĩ.
- Phối hợp với các biện pháp hồi sức tùy theo tình trạng người bệnh: hồi sức hô hấp khi có suy hô hấp (cho trẻ thở ô xi, hô hấp hỗ trợ), hồi sức tim mạch.
Bên cạnh đó, chế độ chăm sóc trẻ bị sởi tại nhà cũng rất quan trọng, đặc biệt chế độ ăn uống có lợi cho sức khỏe của trẻ rất cần thiết để hỗ trợ điều trị bệnh.
Biến chứng của sởi
Mặc dù khả năng gây t.ử v.ong do sởi ở mức thấp song bệnh lại có thể dẫn đến các biến chứng nặng nề và sự nguy hiểm của sởi chính là các biến chứng.
-Viêm tai giữa
-Viêm phổi
-Tiêu chảy
-Khô loét giác mạc mắt
-Một vài trường hợp trẻ bị viêm não sau sởi, đặc biệt ở t.rẻ e.m suy dinh dưỡng.
Phòng bệnh
Tìm hiểu đường lây của Sởi
Bệnh lây qua đường hô hấp: vi rút sởi có ở trong dịch mũi và họng của bệnh nhân. Thường lây cho người khác trước 4 ngày khi ban sởi xuất hiện, trực tiếp khi bệnh nhân hắt hơi, ho, khi nói.
Vaccine
Chủ động đưa trẻ đi tiêm vacxin từ 9 tháng đến 2 t.uổi.
- Hạn chế tiếp xúc với người mắc bệnh
- Vệ sinh tay thường xuyên hàng ngày, nhất là những người chăm sóc trẻ.
- Trong trường hợp nhà trẻ, trường học có dịch, vệ sinh môi trường, đồ chơi... cho trẻ.
- Đi khám kịp thời khi trẻ có biểu hiện hắt hơi, chảy mũi, sốt cao....
Sởi có bị lại không?
Khả năng mắc lại sởi - KHÔNG CÓ
Sau khi bị mắc sởi, hoặc sau khi được tiêm chủng vaccine, cơ thể con người sẽ "nhận biết" mầm bệnh và sinh tổng hợp các kháng thể để chống lại tác nhân gây bệnh tương ứng, y học gọi là đã có miễn dịch. Để đ.ánh giá thời gian cơ thể có khả năng miễn dịch phòng bệnh, y học phân ra hai loại miễn dịch là tạm thời (có thời hạn) và vĩnh viễn (lâu dài). Miễn dịch với bệnh sởi là miễn dịch lâu dài: nghĩa là chỉ mắc sởi một lần trong đời.
Nếu bạn đã mắc sởi thật sự, được chẩn đoán chính xác qua xét nghiệm huyết thanh đặc hiệu dương tính rõ ràng, thì không cần tiêm vaccine sởi nữa. Tuy nhiên nếu tiêm vaccin thì điều kiện vaccine phải tốt và kỹ thuật tiêm phải chuẩn.
LƯU Ý
Có một loại sởi đặc biệt, sởi Đức (German measles) hay bệnh Rubella, thường gặp ở người lớn. Phụ nữ mang thai, nếu bị bệnh rubella, có thể có những khuyết tật bẩm sinh gây tàn phế cho thai nhi. Do đó nếu bạn có ý định mang thai phải tiêm chủng vắc xin ngừa sởi rubella này./.
Theo VOV
Bác sĩ Thơm 30 năm tận tụy với bệnh nhân lao Điều trị cho hàng ngàn bệnh nhân lao, vị bác sĩ có nguy cơ nhiễm bệnh bởi ông đang mang trong mình vi trùng lao chực chờ bùng phát. Một sáng sớm cuối năm, chúng tôi có mặt trước phòng khám lao, Trung tâm Y tế quận 8, TP.HCM. Lúc này, bác sĩ (BS) Nguyễn Văn Thơm, Trưởng phòng khám lao, đang ân...