Đổ xô đi học thạc sĩ
Học sau ĐH, đặc biệt là thạc sĩ, đã trở thành trào lưu. Nhiều người đi học chủ yếu để “giữ ghế” chứ không hẳn là nghiên cứu khoa học.
Hai nghiên cứu sinh (NCS) của Trường ĐH Bách khoa Hà Nội mới đây đã bị trường này cho dừng làm NCS vì không tham gia sinh hoạt học thuật ở bộ môn, không có báo cáo làm việc định kỳ, không viết báo cáo khoa học. GS Nguyễn Trọng Giảng, Hiệu trưởng Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, cho hay quyết định này xuất phát từ đợt kiểm tra đối với các NCS và thạc sĩ khoa học trong 2 năm 2010 và 2011 của trường. Qua kiểm tra cho thấy có những trường hợp NCS không thực hiện đúng quy chế làm việc, không có báo cáo định kỳ và không tham gia sinh hoạt học thuật của bộ môn. Việc này gây khó khăn cho khâu quản lý NCS của trường cũng như chất lượng đào tạo.
Ảnh minh họa
“Tặc lưỡi” cho qua!
Quy mô đào tạo sau ĐH của các trường ĐH trong những năm gần đây tăng lên nhanh chóng. Năm 2011, chỉ tiêu đào tạo của ĐH Quốc gia Hà Nội lên đến 4.000 thạc sĩ (3.355 chỉ tiêu tại đơn vị, 645 chỉ tiêu liên kết), 376 chỉ tiêu đào tạo tiến sĩ, trong khi chỉ tiêu đào tạo ĐH chính quy của trường cũng chỉ dừng lại ở mức khoảng 5.500. Chỉ riêng đợt 1 tuyển sinh đào tạo thạc sĩ năm 2012, chỉ tiêu đào đạo của Trường ĐH Giao thông Vận tải Hà Nội là 1.000 cho cả 2 cơ sở tại Hà Nội và TPHCM.
PGS-TS Ngô Kim Thanh, Khoa Quản trị kinh doanh Trường ĐH Kinh tế Quốc dân Hà Nội, cho rằng tình trạng đổ xô đi học thạc sĩ đang trở thành trào lưu của nhiều người. Tuy nhiên, trái với sự gia tăng mạnh mẽ về số lượng, chất lượng đào tạo bậc học này có chiều hướng đi xuống. PGS-TS Thanh dẫn chứng một giảng viên có học vị tiến sĩ, chỉ trong vòng vài năm có thể hướng dẫn hàng chục thạc sĩ thì không thể có chất lượng cao được.
Cũng theo PGS-TS Thanh, quy trình đào tạo thạc sĩ của nhiều trường hiện vẫn theo kiểu hàm thụ vì phần lớn học viên cao học là người vừa đi học vừa đi làm. Nhiều luận văn có được nhờ công nghệ “cắt dán”, có luận văn được sao chép gần như hoàn toàn mà không hề bị phát hiện. Nhận xét về thực trạng các luận án tiến sĩ kinh tế ở các trường ĐH khối kinh tế, PGS-TS Nguyễn Ngọc Quang, Viện Kế toán – Kiểm toán, Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, cho rằng nhiều NCS chưa thực sự dành tâm huyết cho quá trình học tập, nghiên cứu viết luận án. Có người đang trong thời gian viết luận án tiến sĩ nhưng một năm vẫn giảng 1.000 tiết ở một trường ĐH hoặc tham gia kinh doanh ở một công ty nào đó với doanh thu và số ngày công cao nhất. Tuy nhiên, rất ít trường hợp NCS “đứt gánh giữa đường”, phần đông các trường vẫn “tặc lưỡi” cho qua chứ ít khi mạnh tay dừng việc làm luận án của họ.
Phó mặc cho nghiên cứu sinh
Cũng theo PGS-TS Nguyễn Ngọc Quang, trong thực tế còn nhiều bất cập đối với cán bộ hướng dẫn NCS. Có những cán bộ không am hiểu lĩnh vực nghiên cứu mà NCS đề xuất nhưng vẫn chấp nhận hướng dẫn, thậm chí có cán bộ hướng dẫn trong thời gian được hướng dẫn hoặc 5 năm gần đây chưa bao giờ công bố một công trình khoa học có liên quan đến hướng nghiên cứu của NCS, không bao giờ tham gia các đề tài khoa học các cấp, do vậy hoàn toàn phó mặc cho NCS hoặc lợi dụng sự góp ý của tập thể. Trong khi sinh hoạt khoa học bộ môn đối với NCS ở các trường ĐH nước ngoài rất được coi trọng thì ở nhiều trường ĐH ở Việt Nam, sinh hoạt khoa học chỉ là hình thức. PGS-TS Quang cho hay quy định của Bộ GD-ĐT là NCS phải sinh hoạt khoa học ít nhất 4 lần/năm nhưng thường một NCS trong quá trình đào tạo tiến sĩ chỉ sinh hoạt khoa học bộ môn 1 hoặc 2 lần.
Video đang HOT
Với 3 vòng chấm đối với luận án tiến sĩ, 2 vòng chấm đối với luận văn thạc sĩ, nhìn bề mặt thì quy trình đánh giá chất lượng luận văn, luận án ở Việt Nam có vẻ chặt chẽ, tuy nhiên, chất lượng lại rất thấp. PGS-TS Ngô Kim Thanh cho hay sự thấp kém này một phần xuất phát từ trình độ và ý thức trách nhiệm của nhiều cán bộ hướng dẫn và sự dễ dãi đối với NCS, phần khác là do người học không nghiêm túc học tập và nghiên cứu, học không gắn với hành trong tương lai mà chỉ cần lấy bằng để củng cố vị trí hiện tại của họ.
Theo Yến Anh
Người Lao Động
Thả nổi đào tạo liên thông: Bộ GD-ĐT đang đứng ở đâu?
Đào tạo liên thông được mở ra nhằm tạo điều kiện cho người học được chuyển tiếp lên bậc học cao hơn. Tuy nhiên, việc Bộ GD-ĐT "nới tay" cho phép các trường đào tạo theo hình thức này đã làm phát sinh ra những cuộc "nâng cấp bằng" với quy mô lớn.
Những bất cập về đào tạo liên thông đã được phản ánh nhiều năm nay nhưng chẳng hiểu vì lí do gì, Bộ GD-ĐT vẫn cho phép các trường thực hiện rầm rộ, thậm chí là ngay cả các trường mới được thành lập cũng được tham gia. Năm 2008, sự "thả nổi" này tiếp tục được Bộ GD-ĐT "nới tay" khi ban hành quy chế đào tạo Liên thông với việc giao tự chủ cho hiệu trưởng các trường có thẩm quyền đào tạo liên thông từ TCCN lên CĐ và từ CĐ lên ĐH, tất nhiên kèm theo điều kiện: báo cáo về Bộ trước khi triển khai.
Năm 2010, một lần nữa Bộ GD-ĐT và Bộ Lao động - Thương binh xã hội mở rộng thêm cơ hội cho đối tượng dạy nghề khi ban hành thông tư liên tịch Hướng dẫn đào tạo liên thông từ trình độ trung cấp nghề, CĐ nghề lên trình độ CĐ và ĐH.
Ngay sau khi thông tư này được ban hành thì một cuộc "nâng cấp bằng" quy mô lớn đã được hình thành bất chấp những quy định. Không ít trường chưa được cấp phép vẫn ngang nhiên thông báo tuyển sinh hệ đào tạo liên thông từ CĐ nghề lên ĐH. Thậm chí có những đơn vị đã tổ chức đào tạo "chui" đến 7 khóa, lúc đó Bộ GD-ĐT mới phát hiện và yêu cầu chấm dứt.
Kỳ 1 : "Quên" đánh giá cho phép tràn lan
Thí điểm "biến" thành đại trà
Đào tạo liên thông được Bộ GD-ĐT lần đầu tiên triển khai thí điểm vào năm 2002, lúc này số trường được tham gia chỉ đếm trên đầu ngón tay. Tưởng rằng sau một thời gian thí điểm, Bộ GD-ĐT sẽ rút kinh nghiệm đánh giá một cách cẩn thận trước khi mở rộng. Tuy nhiên, cách làm lại hoàn toàn trái ngược lại, sau 10 năm kể từ ngày thí điểm chưa một lần tổ chức một cuộc hội thảo nào về chủ đề liên thông nhưng đến nay với các quy định ban hành thì trường nào cũng được phép, trừ một số trường hợp liên thông từ TCCN lên ĐH hoặc từ hệ đào tạo nghề lên CĐ, ĐH phải do Bộ GD-ĐT trực tiếp cho phép.
Tưởng rằng với việc triển khai đại trà thì chí ít Bộ GD-ĐT cũng có những văn bản chặt chẽ để kiểm soát đầu vào cũng như khâu đào tạo cho đến đầu ra. Nhưng trên thực tế thì toàn quyền lại do hiệu trưởng các trường phụ trách. Không có một quy chế về tổ chức thi liên thông mà chỉ là những hướng dẫn "sơ sài" nên các trường mặc sức thông báo tuyển sinh, tổ chức thi, chấm thi... và gọi thí sinh trúng tuyển một cách vô tội vạ.
Với quy trình các trường được tổ chức "khép kín" toàn phần nên cũng từ đây xuất hiện biết bao cuộc "mua bán" bằng cấp cũng như đầy dẫy những tiêu cực trong kì thi liên thông.
N.T.S tốt nghiệp hệ TCCN trường ĐH T. sau dự thi liên thông lên CĐ tiết lộ: "Nói là thi cho nó to tát chứ trên thực tế là thỏa thuận. Về lý thuyết thì các câu hỏi trong đề được "khoanh vùng" ở mức hẹp nhất chỉ cần về nghiên cứu học qua là làm được bài. Còn về chuyên môn thì gắn liền với thực tế đã làm nên đa phần chẳng mấy ai gặp khó khăn".
N.T.S cũng tiết lộ, thông thường trước khi tổ chức kì thi liên thông, các trường đều tổ chức ôn tập. Chỉ vài lấn đến gặp thầy hướng dẫn ôn tập là có thể có trong tay đề cương "rút gọn" cuối cùng.
Bộ GD-ĐT tiếp tay cho "thả nổi"
Đỉnh điểm của sự thả nổi về liên thông đó chính là sự kiện Trường ĐH Công nghiệp TPHCM đào tạo "chui" từ hệ CĐ nghề lên ĐH. Số lượng sinh viên "sập bẫy" lên đến con số hàng chục nghìn người. Ngay sau khi phát hiện sai phạm, Bộ GD-ĐT lập tức yêu cầu trường dừng tuyển sinh đối với thí sinh tốt nghiệp hệ CĐ nghề nhưng về hướng xử lý cụ thể thì cho đến nay Bộ vẫn chưa công bố.
Cuối tháng 8/2012, Bộ GD-ĐT yêu cầu Trường ĐH Công nghiệp TPHCM chấm dứt tuyển sinh liên thông CĐ nghề lên ĐH. (Ảnh: Báo Tuổi Trẻ)
Sau vụ việc này lại tiếp tục xuất hiện thêm nhiều trường có hình thức vi phạm tương tự và Bộ GD-ĐT đành phải công bố danh sách các trường đã được giao nhiệm vụ đào tạo liên thông từ hệ nghề lên ĐH, CĐ. Từ con số 11 ban đầu và sau nhiều lần rà soát con số được ấn định 16. Qua đây mới thấy Bộ chỉ giao nhưng dường như lại "buông" lỏng quản lý.
Tuy nhiên, vấn đề lại đáng nói hơn cả đó là việc cấp phép cho 16 trường này quá dễ dàng, không tuân thủ các điều kiện ràng buộc trong thông tư liên tịch giữa Bộ GD-ĐT và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Chẳng hạn như, theo thông tư liên tịch thì các trường CĐ nghề, trung cấp nghề có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin cho các trường ĐH, CĐ về: mục tiêu đào tạo, chuẩn đầu ra của nghề đào tạo, chương trình đào tạo, các điều kiện bảo đảm chất lượng của trường, kết quả kiểm định chất lượng giáo dục được cơ quan quản lý có thẩm quyền xác nhận, để làm cơ sở cho việc công nhận giá trị kết quả học tập, miễn trừ các học phần đã học cho người học, tuyển sinh, xây dựng chương trình đào tạo liên thông và tổ chức đào tạo theo yêu cầu bảo đảm chất lượng đào tạo.
Tuy nhiên, trên thực tế các điều kiện này của các trường CĐ nghề, trung cấp nghề đến nay vẫn còn bỏ ngỏ thậm chí có thể nói là chưa có cơ sở để đánh giá.
Trong khi đó, tại điều 4 về điều kiện đào tạo liên thông nêu rõ: "Đã xây dựng hoàn chỉnh chương trình đào tạo liên thông từ trình đô trung câp nghê, cao đẳng nghê lên trình độ cao đẳng, đại học theo quy định hiện hành vê đào tạo liên thông của Bô GD-ĐT".
Điều 6 về hồ sơ mở ngành có yêu cầu bảng đối chiếu chương trình đào tạo của các nghề ở trình độ trung cấp nghề, cao đẳng nghề với chương trình đào tạo của các ngành tương ứng ở trình độ cao đẳng, đại học để làm căn cứ xây dựng chương trình đào tạo liên thông.
Và tại điều 12 về điều khoản thi hành nhấn mạnh: "Các trường trung cấp nghề, cao đẳng nghề có trách nhiệm phối hợp với các trường CĐ và trường ĐH xây dựng chương trình đào tạo liên thông từ trình đô trung cấp nghề, cao đẳng nghề lên trình đô cao đẳng, đại học"
So sánh hai điểm này có thể thấy theo đúng thông tư liên tịch thì để được đào tạo liên thông từ hệ nghề lên ĐH, CĐ thì không phải một sớm một chiều mà ít nhất cần vài năm để thực hiện.
Nhìn vào danh sách các quyết định dành cho 16 trường đã được Bộ GD-ĐT cho phép có thể thấy sự "dễ dãi" trong khâu coi thường chất lượng. Thông tư liên tịch có hiệu lực vào ngày 12/12/2010 thì chưa đầy 6 tháng sau, Bộ GD-ĐT đã giao nhiệm vụ cho hàng loạt trường thực hiện. Trong số này lại còn xuất hiện những trường ĐH mới được thành lập. Ngay cả hệ đào tạo chính quy còn chưa hoàn thành tốt thậm chí là từng bị dừng tuyển sinh cách đó chưa lâu, ấy vậy mà Bộ GD-ĐT lại tin tưởng cho phép.
Trong quá trình đi thực hiện loạt bài viết này, chúng tôi có làm việc với một số trường chưa được cấp phép nhưng vẫn tổ chức tuyển sinh đào tạo. Khi được hỏi thì các trường đều có chung tâm sự: "Theo thông tư liên tịch thì trước sau khi cũng được Bộ GD-ĐT cho phép. Hiện đã trình hồ sơ chỉ cần chờ đồng ý nữa là xong". Qua đây cho thấy vì sự "dễ dãi" của Bộ GD-ĐT mà các trường chẳng ngần ngại "làm liều"!
Chưa làm việc với các trường CĐ nghề, Trung cấp nghề trong cả nước nhưng các đơn vị được cấp phép cũng như chưa phép thông báo tuyển sinh rầm rộ, không giới hạn đối tượng... Cánh cửa mở rộng nên hàng loạt thí sinh học hệ nghề đỗ xô đến đăng ký tham gia. Cuộc chạy đua "nâng cấp bằng" bắt đầu...
(còn tiếp)
S.H
Theo dân trí
Kéo dài xét tuyển: Bất hợp lý Đại diện nhiều trường cho rằng việc kéo dài thời gian xét tuyển ĐH, CĐ không có hiệu quả, nhiều trường vẫn phải đóng cửa nhiều ngành học vì không có sinh viên Từ khi áp dụng tuyển sinh theo "ba chung", năm nay là năm đầu tiên các trường được phép kéo dài thời hạn nhận hồ sơ xét tuyển nguyện vọng...