ĐH Quốc gia Hà Nội vào top 1000 ĐH hàng đầu thế giới: Chỉ là một chỉ số đánh giá chất lượng!
Xếp hạng đại học không phải là mục đích mà là một chỉ số đánh giá chất lượng hoạt động của ĐH Quốc gia Hà Nội.
Đây là một cơ hội để đánh giá, nhìn nhận, đối sánh chất lượng hoạt động của mình ở một thời điểm cụ thể, qua đó có các giải pháp cải tiến liên tục và phát triển bền vững.
Đó là khẳng định của PGS.TS Nguyễn Hoàng Hải- Phó Giám đốc ĐH Quốc gia Hà Nội với PV Dân trí sau khi ĐH QGHN là một trong 02 cơ sở giáo dục đại học được Thời báo Giáo dục đại học (Times Higher Education, THE) xếp vào nhóm 1000 đại học hàng đầu thế giới.
Một phần khuôn viên của Trường ĐH Khoa học Tự nhiên – ĐH Quốc gia Hà Nội
Không phải trường đại học nào đăng kí cũng được xếp hạng
Phóng viên: Chúc mừng Đại học Quốc gia Hà Nội đã vào top 1000 Bảng xếp hạng đại học thế giới của Times Higher Education. Ông đánh giá thế nào về các bảng xếp hạng và khả năng tham gia các bảng xếp hạng của các trường đại học tại Việt Nam hiện nay?
PGS.TS Nguyễn Hoàng Hải: Hiện nay, trên thế giới có nhiều bảng xếp hạng đại học, mỗi bảng có tiêu chí xếp hạng khác nhau, trong đó các bảng xếp hạng được biết đến nhiều nhất là:
THE University Rankings (thuộc Times Higher Education, Vương quốc Anh), QS University Rankings (thuộc Quacquarelli Symonds, Vương quốc Anh), Academic Ranking of World Universities (ARWU, ShanghaiRanking Consultancy, Trung Quốc), Webometrics (Cybermetrics Lab, Tây Ban Nha), US News (Mỹ), University Ranking by Academic Performance (URAP, Thổ Nhĩ Kỳ), U-Multirank (Châu Âu), uniRank… Các bảng xếp hạng này có thể được chia làm 2 nhóm phụ thuộc vào cách lấy dữ liệu để xếp hạng.
Nhóm thứ nhất là nhóm xếp hạng tự động thông qua việc thu thập các dữ liệu có sẵn trên Internet và các cơ sở dữ liệu học thuật như Nature & Science, Web of Science, Scopus… Các bảng xếp hạng ARWU, US News, Webometrics, uniRank… dựa trên dữ liệu về công bố quốc tế hoặc tài nguyên online của trường đại học (trên website của trường đại học, trong các cơ sở dữ liệu trực tuyến như ISI, Scopus, Google Scholars…) để đánh giá các trường đại học.
Với các quốc gia phát triển, hội nhập quốc tế rộng rãi, có hạ tầng công nghệ thông tin tốt thì hoạt động đào tạo, nghiên cứu, đóng góp cho doanh nghiệp, cộng đồng và xã hội của các đại học được phản ánh trên Internet đầy đủ thì các trường đại học có lợi thế trong các bảng xếp hạng này.
Nhóm thứ hai là các bảng xếp hạng sử dụng nhiều nguồn dữ liệu khác nhau không chỉ bao gồm các loại dữ liệu trên mạng mà còn dựa vào các dữ liệu do các trường đại học cung cấp và các nguồn dữ liệu do các tổ chức xếp hạng trực tiếp khảo sát, thu thập được.
Các Bảng xếp hạng như THE, QS, U-Multirank,… đánh giá các đại học theo cách như vậy. Các bảng xếp hạng thuộc nhóm thứ hai chỉ xếp hạng khi trường đại học đăng kí xếp hạng và gửi dữ liệu. Không phải trường đại học nào đăng kí cũng được xếp hạng mà chỉ các trường đại học có các tiêu chí xếp hạng đạt tiêu chuẩn mới được xếp hạng.
Thông qua hệ thống khảo sát, các bảng xếp hạng đánh giá uy tín của trường đại học theo sự thừa nhận rộng rãi của cộng đồng (doanh nghiệp, nhà khoa học, các trường đại học đối tác,…).
Với các trường đại học ở Việt Nam, trong bối cảnh tính quốc tế hoá chưa cao thì việc tham gia các bảng xếp hạng không chỉ sử dụng các dữ liệu trên mạng mà sử dụng nhiều nguồn dữ liệu như THE, QS sẽ phù hợp hơn, phản ánh đúng hơn trình độ và chất lượng của một trường đại học.
PGS.TS Nguyễn Hoàng Hải, Phó Giám đốc ĐH Quốc gia Hà Nội
Mô hình đại học truyền thống, khép kín và đơn ngành sẽ khó xếp hạng
Phóng viên: Vậy ĐHQGHN đã làm gì để đáp ứng các tiêu chí có tính thách thức rất cao của THE và đạt được thành tích xuất sắc này?
PGS.TS Nguyễn Hoàng Hải: Gần đây, ĐHQGHN đã có mặt ở top 1000 trong Bảng xếp hạng QS (2019 và 2020), duy trì ở vị trí 124 trong bảng xếp hạng các đại học châu Á của QS (QS Asia University), tiếp tục vị trí số 1 ở Việt Nam và vị trí 1090 trong bảng xếp hạng Webometrics thế giới.
Việc được xếp vào nhóm 801-1000 trường đại học hàng đầu trong bảng xếp hạng THE là một đánh giá đúng những nỗ lực không ngừng nghỉ của thầy và trò ĐHQGHN. Điều này khẳng định ĐHQGHN là một cơ sở nghiên cứu, đào tạo và chuyển giao tri thức hàng đầu của Việt Nam.
So với Bảng xếp hạng QS thì Bảng xếp hạng THE có một số tiêu chí cao hơn đối với các trường đại học Việt Nam và ĐHQGHN. Đó là tiêu chí về thu nhập thông qua hoạt động đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao tri thức; tiêu chí quốc tế hóa trong nghiên cứu và đào tạo.
Video đang HOT
THE đưa ra bộ tiêu chí để hướng đến đánh giá và xếp hạng các trường đại học có định hướng nghiên cứu, hoạt động với mô hình tự chủ cao, gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp, cộng đồng và xã hội. Mô hình đại học truyền thống, khép kín và đơn ngành thực sự rất khó có thể lọt vào bảng xếp hạng này.
ĐHQGHN có sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài; nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và chuyển giao tri thức đa ngành, đa lĩnh vực; góp phần xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước; làm nòng cột và đầu tàu trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam.
Xếp hạng đại học không phải là mục đích mà là một chỉ số đánh giá chất lượng hoạt động của ĐHQGHN. ĐHQGHN đã đặt sứ mệnh, tầm nhìn và mục tiêu trở thành đại học nghiên cứu đa ngành, đa lĩnh vực hàng đầu ở Việt Nam và sớm đứng trong danh sách những đại học hàng đầu thế giới.
Các chỉ số phát triển được nghiên cứu, xây dựng với sự tham khảo các tiêu chí xếp hạng để làm sao vừa đảm bảo sự phát triển bền vững, hài hòa của cả hệ thống, thực hiện tốt sứ mệnh đặt ra, vừa tạo được ưu thế khi tham gia các bảng xếp hạng đại học.
ĐHQGHN là cơ sở giáo dục đại học đầu tiên xây dựng Bộ tiêu chí Đại học nghiên cứu để áp dụng tại các đơn vị thành viên từ năm 2013. Sắp tới, trước đòi hỏi của thực tiễn phát triển và bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, ĐHQGHN chuẩn bị ban hành Bộ tiêu chí Đại học nghiên cứu và đổi mới sáng tạo để thay thế Bộ tiêu chí đại học nghiên cứu.
Có thể thấy, nỗ lực cải tiến chất lượng, cải tiến hệ thống quản trị của ĐHQGHN được diễn ra liên tục, không ngừng và đảm bảo đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn.
Điều này cũng đem đến những lợi thế lớn trong các khảo sát của THE về uy tín đào tạo, uy tín nghiên cứu khoa học của trường đại học.
Xếp hạng là một cơ hội để đánh giá nhìn nhận lại mình
Phóng viên: Được biết, để có dữ liệu xếp hạng, THE căn cứ vào cơ sở dữ liệu khoa học SCOPUS, các nguồn khảo sát độc lập do họ tự thực hiện, và dữ liệu do các trường đại học cung cấp. Ông cho biết, ĐHQGHN đã cung cấp dữ liệu gì, có đảm bảo yếu tố khách quan?
PGS.TS Nguyễn Hoàng Hải: Bảng xếp hạng THE yêu cầu tất cả các cơ sở giáo dục đại học cung cấp một khung dữ liệu như nhau, bao gồm tổng số cán bộ, số giảng viên và nghiên cứu viên, tổng số người học (bao gồm số sinh viên, số học viên cao học và số nghiên cứu sinh), các kết quả nghiên cứu, chuyển giao tri thức…
Những dữ liệu này đã được công bố công khai, rộng rãi trên website và các sản phẩm truyền thông của ĐHQGHN và các đơn vị thành viên, do đó được cộng đồng, xã hội tiếp cận rộng rãi cũng như thực hiện giám sát.
Các chỉ số này cũng được THE công bố trên trang profile của ĐHQGHN đặt tại hệ thống website của THE. Như vậy, có thể nói dữ liệu rất tường minh và cụ thể. Bên cạnh đó, để đảm bảo tính khách quan trong xử lý dữ liệu, THE cũng mời công ty kiểm toán quốc tế PricewaterhouseCoopers giám sát độc lập và toàn diện quá trình xử lý dữ liệu xếp hạng.
Như trên đã nói, ĐHQGHN quan niệm việc xếp hạng là một cơ hội để đánh giá, nhìn nhận, đối sánh chất lượng hoạt động của mình ở một thời điểm cụ thể, qua đó có các giải pháp cải tiến liên tục và phát triển bền vững.
Như vậy, để đánh giá được đúng thực tế của mình, không gì quan trọng bằng việc cung cấp dữ liệu đúng, đủ, và khách quan. Điều này đã là triết lý phát triển của ĐHQGHN.
Điểm yếu nhất của ĐH Việt Nam là từ kinh phí chuyển giao công nghệ
Phóng viên: Trong khu vực Đông Nam Á, Thái Lan có 16 trường lọt vào top 1000, Malaysia có 13 trường, Indonesia có 6 trường, Singapore có 2 trường… So với các ĐH trên, theo ông điểm yếu lớn nhất của các trường ĐH Việt Nam là gì?
PGS.TS Nguyễn Hoàng Hải: Trong khu vực, Singapore có hai đại học có thứ hạng cao hơn hẳn các đại học còn lại đó là Đại học Quốc gia Singapore (thứ 25) và Đại học Công nghệ Nanyang (thứ 48).
Các quốc gia khác có nhiều đại học được lọt vào bảng xếp hạng THE chỉ được xếp hạng trung bình. So với các đại học này, ĐHQGHN có lĩnh vực hợp tác quốc tế ở mức ngang với các trường hàng đầu trong khu vực (ĐHQGHN đạt 47,4 điểm, ĐH Mahidol đạt 46,1 điểm, ĐH Chulalongkorn đạt 37,8 điểm), chỉ số về trích dẫn các bài báo khoa học gần với các đại học trong khu vực (ĐHQGHN đạt 38,8 điểm, ĐH Mahidol đạt 45,2 điểm; ĐH Malaya đạt 56,6 điểm, ĐH Chulalongkorn đạt 22,2 điểm).
Điểm yếu lớn nhất của ĐHQGHN và của các đại học khác ở Việt Nam là vấn đề về kinh phí đến từ chuyển giao khoa học công nghệ cho doanh nghiệp.
Tiêu chí nghiên cứu của ĐHQGHN, Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, và ĐHQG TpHCM lần lượt là đạt 9.1 điểm, 8.4 điểm, và 8.7 điểm. Trong khi đó các trường trong khu vực như ĐH Mahidol, Chulalongkorn, Malaya có lần lượt điểm nghiên cứu là 21, 21.7, và 30.5.
Có lẽ đây là điểm yếu lớn nhất mà hệ thống giáo dục đại học Việt Nam cần sớm khắc phục.
Tiếp tục duy trì và nâng cao thứ hạng
Phóng viên: ĐH QGHN khẳng định không lấy việc xếp hạng làm mục đích của cho các hoạt động của mình, vậy chiến lược phát triển của ĐH QGHN trong thời gian tới là gì?
PGS.TS Nguyễn Hoàng Hải: Đúng. ĐHQGHN không lấy việc xếp hạng làm mục đích của cho các hoạt động của mình. Xếp hạng là công cụ để đối sánh, đánh giá chất lượng và tìm những điểm mạnh, điểm yếu của trường đại học ở một số thời điểm cụ thể.
Tuy nhiên, đặt ra vấn đề duy trì và nâng cao thứ hạng sẽ giúp trường đại học có những động lực phát triển tốt, đồng thời thuận lợi trong truyền thông, khẳng định vị thế và uy tín của ĐHQGHN.
Không phải đợi đến khi xếp hạng mới nhận ra các điểm yếu trong hoạt động mà ĐHQGHN đã có kế hoạch từ lâu. Tuy nhiên vì nhiều lí do chủ quan, khách quan mà việc thực hiện chưa thực sự được như mong muốn.
Trong tương lai ĐHQGHN vấn tiếp tục phát huy các nghiên cứu khoa học cơ bản nhưng chú trọng yếu tố chất lượng của công trình nghiên cứu hơn yếu tố số lượng; khuyến khích các nhà khoa học thuộc lĩnh vực quản lí, nhân văn tham gia công bố quốc tế; phát huy sức mạnh của nghiên cứu liên lĩnh vực; mở rộng hợp tác quốc tế.
Bên cạnh đó ĐHQGHN tiếp tục mở các chương trình đào tạo gắn với các nghiên cứu đáp ứng yêu cầu của xã hội; kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu, đào tạo với các doanh nghiệp theo hướng đưa các kiến thức liên quan đến công nghệ thông tin, số hoá và khởi nghiệp, sáng tạo vào chương trình đào tạo.
Với sự cố gắng của giảng viên, sinh viên ĐHQGHN sẽ tiếp tục vươn lên để có thứ hạng cao hơn nữa.
Trân trọng cám ơn ông!
Theo Hồng Hạnh/Dân trí
2 đại học Việt Nam lọt tốp 1.000 bảng xếp hạng uy tín thế giới
ĐH Quốc gia Hà Nội và Trường ĐH Bách khoa Hà Nội đã có tên trong bảng xếp hạng tốp 1.000 đại học thế giới, theo bảng xếp hạng uy tín THE.
Ngày 11/9/2019, Thời báo Giáo dục đại học (Times Higher Education, THE) công bố kết quả xếp hạng đại học thế giới mới nhất (World University Rankings 2020) trong sự kiện hội nghị thượng đỉnh về học thuật của THE tổ chức tại Zurich (Thụy Sỹ).
Theo đó, lần đầu tiên Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) và 2 cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam được THE công bố thứ hạng cùng với gần 1.400 cơ sở giáo dục đại học hàng đầu thế giới.
Trong đó, ĐHQGHN cùng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội thuộc nhóm 801-1000 thế giới; tiếp theo là Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trong nhóm 1000 .
Bảng 1. Thứ hạng các trường ĐH của Việt Nam trong Bảng xếp hạng THE thế giới. (Nguồn: https://www.timeshighereducation.com/world-university-rankings/2020/world-ranking )
Như vậy, cùng với Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, ĐHQGHN đạt mức điểm 22,2 - 28,2 của THE.
Trong đó, ĐHQGHN có các chỉ số về giảng dạy, nghiên cứu khoa học, và hội nhập quốc tế đứng đầu trong nhóm các cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam có mặt trong Bảng xếp hạng.
ĐH Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu về chỉ số thu nhập từ doanh nghiệp.
Còn Trường ĐH Bách khoa Hà Nội có chỉ số về trích dẫn khoa học cao nhất.
Năm nay, THE xếp hạng cho 1.395 cơ sở giáo dục đại học trên tổng số 1.820 cơ sở giáo dục đại học tham gia.
Đây là con số lớn nhất từ trước đến nay trong quy mô xếp hạng đại học thế giới của THE.
Các cơ sở giáo dục này thuộc 92 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Tâm tư sau kết quả "về đích sớm"
Trao đổi với VietNamNet sáng 12/9, ông Hoàng Minh Sơn, Hiệu trưởng Trường ĐH Bách khoa Hà Nội bày tỏ sự vui mừng vì ngày càng có nhiều trường ĐH của Việt Nam lọt vào các bảng xếp hạng quốc tế. Như vậy là mục tiêu có 4 cơ sở GDĐH lọt vào top 1000 thế giới theo Đề án nâng cao chất lượng giáo dục đại học giai đoạn 2019 - 2025 (đã được Thủ tướng phê duyệt) đã đạt được sớm 6 năm. Tuy nhiên, ông cũng lưu ý "không nên phấn kích" bởi thứ tự xếp hạng vẫn thấp, và đây chỉ là một trong những chỉ số "đo lường" về hoạt động của các cơ sở đào tạo đại học.
Ông Sơn phân tích: "Hầu hết các bảng xếp hạng đều coi trọng các chỉ số đánh giá thành tích nghiên cứu mà ít đánh giá sát thực chất lượng đào tạo và tác động xã hội. Trong bảng xếp hạng của THE thì các chỉ số năng suất, uy tín và ảnh hưởng nghiên cứu đã chiếm tới 60%, ngay cả tiêu chí chất lượng giảng dạy cũng lại căn cứ vào quy mô đào tạo tiến sĩ (8,25%) và ý kiến bình chọn của các học giả có thành tích cao về nghiên cứu (15%) tức một phần nào đó cũng gián tiếp phản ánh năng lực nghiên cứu. Nếu tính thêm cả chỉ số về chuyển giao tri thức và hợp tác công bố quốc tế nữa thì có thể nói các tiêu chí liên quan trực tiếp hay gián tiếp tới nghiên cứu đã chiếm trọng số tới hơn 90%. Trong khi đó, những chỉ số phản ánh sát thực nhất chất lượng đào tạo như mức độ nỗ lực của người học, mức độ hài lòng của người học, tỉ lệ việc làm của người tốt nghiệp, mức độ gia tăng thu nhập khi tốt nghiệp thì chưa thấy bảng xếp hạng uy tín nào đề cập tới. Đó cũng là một vấn đề chúng ta cần suy ngẫm khi xây dựng chiến lược phát triển, cần phải quan tâm tới cả 3 nhiệm vụ cốt lõi trong sứ mạng của một trường đại học là đào tạo, nghiên cứu và phục vụ cộng đồng".
Theo đó, trong thời gian tới, các trường đại học trong nước cần hợp tác chặt chẽ, toàn diện và hiệu quả hơn, thay vì cho đến nay chỉ chú trọng hợp tác quốc tế.
5 nhóm tiêu chí xếp hạng thế giới của THE
1) Giảng dạy (Môi trường học tập) với trọng số điểm xếp hạng là 30% và 5 tiêu chí xếp hạng, bao gồm: kết quả khảo sát về uy tín giảng dạy (15%), tỷ lệ giảng viên/sinh viên (4,5%), tỷ lệ học viên nghiên cứu sinh/sinh viên đại học (2,25%), tỷ lệ giảng viên là tiến sỹ (6%), và thu nhập của đơn vị (2,25%). Thu nhập của trường đại học được THE tính thông qua chỉ số sức mua tương đương, phản ánh mức độ đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị cho hoạt động dạy và học ở trường đại học.
2) Nghiên cứu (số lượng; thu nhập; uy tín) với trọng số 30%, bao gồm: kết quả khảo sát về uy tín nghiên cứu khoa học (18%), thu nhập từ nghiên cứu (6%), và năng suất nghiên cứu (6%);
3) Trích dẫn (số trích dẫn quốc tế trung bình của một công trình của trường đại học) với trọng số 30%. Dữ liệu được tính thông qua 23,400 tạp chí khoa học thuộc cơ sở dữ liêu Scopus trong giai đoạn từ 2014 đến 2018. Lượng trích dẫn được tính cho các ấn phẩm này trong giai đoạn từ 2014 đến 2019. Đã có 12,8 triệu công bố và 77,4 triệu trích dẫn được tính toán.
4) Quốc tế hóa (về cán bộ, sinh viên, nghiên cứu) với trọng số 7,5%, bao gồm: tỷ lệ giảng viên quốc tế (2,5%), tỷ lệ sinh viên quốc tế (2,5%), và chỉ số hợp tác quốc tế (2,5%, thông qua số công bố khoa học có ít nhất 1 đồng tác giả là học giả quốc tế);
5) Thu nhập từ doanh nghiệp (chuyển giao tri thức) với trọng số 2,5% tính thông qua tổng thu nhập từ chuyển giao công nghệ và tri thức cho doanh nghiệp.
Xem chi tiết phân bổ trọng số các chỉ số xếp hạng ở hình dưới đây:
THE xếp hạng như thế nào?
Để có dữ liệu xếp hạng, THE căn cứ vào cơ sở dữ liệu khoa học SCOPUS (của Nhà xuất bản Elsevier) cho các tiêu chí về năng suất nghiên cứu, trích dẫn khoa học và hợp tác quốc tế. Các khảo sát về uy tín giảng dạy và nghiên cứu khoa học được THE chủ động gửi cho các tác giả có công bố trong cơ sở dữ liệu SCOPUS. Các tiêu chí về thu nhập được chuẩn hóa dựa trên chỉ số sức mua tương đương (PPP). Các tiêu chí còn lại được THE đánh giá dựa trên dữ liệu do trường đại học cung cấp. Việc tính điểm và xử lý dữ liệu của THE được tổ chức kiểm toán độc lập, chuyên nghiệp là PricewaterhouseCoopers (PwC) giám sát đầy đủ và độc lập.
Theo Bảng xếp hạng thế giới 2020 của THE, ĐH Oxford tiếp tục giữ vị trí số 1 thế giới, tiếp theo là Viện công nghệ California (California Institute of Technology), ĐH Cambridge, ĐH Standford, Học viện CN Massachusetts... Đáng kể nhất là sự bứt phá của Viện Công nghệ California, đơn vị đã vươn từ vị trí thứ 5 lên vị trí thứ 2 thế giới.
Ở khu vực châu Á, các trường đứng đầu bao gồm Đại học Thanh Hoa (thứ 23 thế giới), Đại học Bắc Kinh (24) và Đại học Quốc gia Singapore (25).
Trong khu vực Đông Nam Á, Thái Lan có 16 trường lọt vào top 1000, Malaysia có 13 trường, Indonesia có 6 trường, Singapore có 2 trường.
Các trường trong khu vực có thứ hạng tương đương ĐHQGHN và Trường ĐH Bách khoa Hà Nội (nhóm 801-1000) bao gồm: Đại học Chulalongkorn (đứng thứ 3 ở Thái Lan), Universiti Tenaga Nasional (UNITEN) và Universiti Utara Malaysia (cùng đứng thứ 9 ở Malaysia).
Hạ Anh
Theo vietnamnet
Những yếu kém nào khiến Đại học Việt Nam không lọt vào bảng xếp hạng THE Châu Á? Tạp chí Times Higher Education (THE) vừa công bố bảng xếp hạng 417 trường ĐH khu vực châu Á năm 2019 nhưng không có đại diện nào của Việt Nam. Vậy Đại học Việt Nam yếu kém những điểm gì? Bao giờ mới lọt vào bảng xếp hạng này? Phóng viên Dân trí đã có buổi trao đổi với GS.TSKH Nguyễn Đình Đức...