Đề xuất bán trường chuyên: Cha mẹ ơi đừng chạy theo thành tích nữa!
Chỉ khi xóa bỏ được căn bệnh thành tích, thì cuộc đua vào chuyên mới không “đại trà” như hiện nay, khi đó trường chuyên sẽ “lọc” được tài năng thực sự
Ảnh minh họa
Hệ thống trường chuyên ở nước ta có bề dày lịch sử đến cả gần trăm năm trước. Và phải khẳng định, rất nhiều người học ở những môi trường này đã trở thành những người thành công trong rất nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của đất nước.
Vậy tại sao nhiều người lại đặt ta câu hỏi “bán trường chuyên cho tư nhân” hay “có nên tiếp tục tồn tại trường chuyên” trong lúc này? Một phần bởi họ nhìn rõ thực tế góc khuất trong hoạt động của trường chuyên không còn giữ nguyên mục đích tốt đẹp như giai đoạn trước kia là nơi để cho những học sinh có tài năng về một môn văn hóa nào đó phát triển, mà thay vào đó nhiều người tìm mọi cách để cho con em (dù không có tài năng thực sự về môn học nào) lọt vào môi trường này.
Những điểm số hoàn hảo này đang ru ngủ các học sinh và nhiều bậc phụ huynh, làm mất động lực phấn đấu của các em.
Người thì ngay từ khi con vào lớp một, đã có định hướng rõ ràng bằng mọi giá con phải thi đỗ vào cấp 2 trường chuyên. Họ bắt đầu hành trình “ép” con học, học ngày, học đêm, học thêm đủ các lò, thậm chí có cháu cùng một môn học thêm 4-5 thầy cô giáo…
Người khác thì quan tâm đến điểm số của con bằng nhiều cách, cốt làm sao để sau 5 năm Tiểu học, học bạ chỉ dặt điểm 10. Vì nếu không có những con điểm hoàn hảo này, con họ sẽ bị loại từ “vòng gửi xe” theo quy định về tuyển sinh vào lớp 6 mà một vài trường THPT chuyên ở Hà Nội đã từng đặt ra. Rồi học sinh sẽ được cộng điểm theo các loại giải thưởng, kể cả giải thể thao đã khiến cho cuộc “săn lùng” giải thưởng trở nên khốc liệt hơn bao giờ hết…
Cũng vì mải mê với cuộc đua khốc liệt để vào trường chuyên như vậy, nên nhiều cháu đã không có tuổi thơ, mà suốt ngày chỉ học, và học, thậm chí đến ăn còn phải trên xe trong lúc cha mẹ đưa đi học thêm. Với cách “cày” ngày “cày” đêm như vậy, đặc biệt ở các lò luyện theo dạng đề của từng trường, nhiều cháu (dù không có tố chất thực sự) nhưng vẫn thi đỗ được vào các trường chuyên. Và con số này cũng chiếm tỷ lệ không nhỏ ở các trường chuyên hiện nay.
Với cách này, cha mẹ đang ép con học theo ý chí và mong muốn của mình mà không cần biết thực lực con đến đâu. Học để cho cha mẹ được “nở mày nở mặt” với mọi người, nhưng họ không biết rằng, làm như vậy họ đang “đánh cắp” đi tuổi thơ của con mình, khi ra ngoài thì lóng ngóng, ngô ngọng thiếu kỹ năng sống, cái gì cũng không biết.
Với cách học và tuyển sinh của một số trường chuyên như hiện nay, ít nhiều đã khiến sứ mệnh tốt đẹp của hệ thống trường chuyên là để đào tạo những học sinh có năng lực vượt trội ở các môn văn hóa không còn như trước. Vì thế để mô hình trường chuyên trở lại đúng với sứ mệnh của mình, là nơi để ươm mầm, đào tạo những học sinh có năng lực vượt trội một cách tốt nhất, cần có sự quan tâm của các cấp, các ngành và từng gia đình.
Trước hết, gia đình là nơi biết rõ nhất khả năng của con em mình. Với một đứa trẻ có khả năng vượt trội, việc vừa học và vừa tham gia các hoạt động đối với các em không quá khó khăn, nhưng đối với một đứa trẻ bình thường, đòi hỏi làm nhiều việc một lúc lại trở thành gánh nặng đối với các em. Vì vậy, nếu tư chất của đứa trẻ bình thường, không nên bằng mọi cách ép nó phải chạy đua với guồng quay vào trường chuyên, lớp chọn, tạo áp lực không cần thiết khiến trẻ mệt mỏi, chán nản với việc học và không biết học để làm gì. Để làm được việc này, cha mẹ phải gạt bỏ được tính sĩ diện, bệnh thành tích hiện đang trở thành trầm kha trong xã hội. Lắng nghe khả năng của trẻ, làm những gì phù hợp cho con mình là điều cha mẹ nên quan tâm.
Một việc không kém quan trọng nữa là ngành Giáo dục và xã hội quyết tâm xóa bỏ được căn bệnh thành tích đang trở nên phổ biến, tràn lan. Thế mới có chuyện một lớp có 43 học sinh thì có đến 42 học sinh giỏi hay trong lớp có tới 98% học sinh giỏi. Và thực tế hiện nay, ít có lớp nào mà có ít hơn 3/4 số học sinh là học sinh giỏi.
Thật khó có thể tin khi mà giờ đây không hiếm những học sinh trong học bạ chỉ toàn những con điểm 10 hoàn hảo. Những con điểm đẹp đẽ đó là cả sự “tự hào” của các bậc cha mẹ để khoe với thiên hạ con mình giỏi giang, không thua kém bạn bè, là điều kiện cần để con họ có thể đăng ký thi tuyển vào các trường chuyên.
Những con điểm đẹp đẽ còn là thành tích của nhà trường, của thầy cô khi báo cáo thi đua, nâng lương, xét thưởng. Và đó cũng là thành tích để địa phương đem ra so sánh, bình xét với các địa phương khác.
Bệnh thành tích với những con điểm 9, 10 và những tờ Giấy khen “Học sinh giỏi” khiến cho các em và gia đình ảo tưởng về khả năng của con em mình. Những con điểm hoàn hảo này đang ru ngủ các con và nhiều bậc phụ huynh, làm mất động lực phấn đấu của các em. Từ đó làm thui chột khả năng tư duy, sáng tạo của học sinh.
Video đang HOT
Và tệ hại hơn, bệnh thành tích đã và đang gây ra những hệ quả đau lòng. Để có được thành tích, người ta tìm mọi cách để chạy trường, chạy lớp, mua điểm, chạy điểm…Những vụ gian lận như ở Hà Giang, Sơn La, Hòa Bình là những minh chứng rõ ràng nhất.
Vì thế, chỉ khi xóa bỏ được căn bệnh thành tích trong giáo dục và xã hội, thì mới mong có một môi trường giáo dục trung thực và thực chất. Khi đó, trường chuyên mới thực sự thực hiện tròn sứ mệnh của mình, là nơi để những đứa trẻ có tố chất thực sự phát huy được tài năng của mình./.
Giáo sư Hà Huy Khoái chia sẻ quan điểm đang gây tranh cãi: Dạy gì ở trường chuyên và sau trường chuyên, làm gì?
"Vinh danh học sinh giỏi cũng là điều tốt, nhưng nên nhớ rằng, vinh quang bao giờ cũng đồng thời là một gánh nặng, nhất là đối với tuổi trẻ", GS Hà Duy Khoái cho hay.
Những ngày vừa qua, đông đảo phụ huynh và những người quan tâm đến giáo dục bàn luận sôi nổi về việc có nên tồn tại trường chuyên hay không. Người thì đồng tình vì cho rằng các trường đã và đang đào tạo ra nhiều nhân tài cho đất nước. Có người thì bày tỏ không nên có trường chuyên vì tạo áp lực cho học sinh hoặc thay vì chỉ biết học thì trường nên dạy thêm kỹ năng sống cho các em...
Chúng tôi xin chia sẻ quan điểm của GS Hà Huy Khoái (Nguyên Viện trưởng Viện Toán học) về việc có nên bồi dưỡng học sinh giỏi và hệ thống các trường THPT chuyên hay không, dạy gì ở trường chuyên và sau trường chuyên thì làm gì. Quan điểm này được GS Hà Huy Khoái chia sẻ tại Lễ Kỷ niệm 40 năm Việt Nam tham gia thi Olympic Toán học Quốc tế (IMO) 1974-2014.
Bài thầy viết tuy đã lâu nhưng quan điểm vẫn còn giá trị với thời điểm hiện tại, chúng tôi xin trích đăng để bạn đọc có thêm góc nhìn về vấn đề đang gây tranh cãi trong những ngày qua.
GS Hà Huy Khoái (Nguyên Viện trưởng Viện Toán học).
Nội dung bài chia sẻ như sau:
"Tôi không nghĩ là sẽ đưa ra được câu trả lời. Cũng không chờ đợi một câu trả lời của các bạn theo kiểu toán học "1 hay 0". Tôi bắt đầu với những câu hỏi, và hy vọng sẽ nhận được nhiều câu hỏi lớn hơn.
Thường thì xã hội đi lên khi tìm cách đối diện với những câu hỏi, có thể ngày càng khó khăn và phức tạp hơn, chứ không bằng con đường tuân thủ một đáp án có sẵn.
Bồi dưỡng học sinh giỏi và hệ thống các trường THPT Chuyên, cần hay không?
Chắc không ai "nói không" với bồi dưỡng học sinh giỏi. Đơn giản vì "phát hiện và bồi dưỡng nhân tài" là một trong những nhiệm vụ cơ bản của giáo dục. Nhưng, bồi dưỡng như thế nào, đầu tư vào việc đó như thế nào xét trong khung cảnh đầu tư cho giáo dục "đại trà", lại là một câu hỏi lớn.
Chúng ta không thể chỉ tập trung vào học sinh giỏi, mà mục tiêu là phải nâng cao mặt bằng dân trí chung, và cuối cùng, cung cấp nhân lực chất lượng cao cho toàn xã hội. Trong khi cần có nền giáo dục thích hợp cho mọi người, thì cái khó mà ngành giáo dục gặp phải lại, có thể tạm gọi, là tính cá thể của mỗi con người.
Không thể đối xử với một tập hợp học sinh như với một tập hợp công cụ thuần nhất nào đó. Cứ nhìn vào một số lĩnh vực khá đặc thù thì rõ. Để trở thành một "cao thủ võ lâm", người ta phải lên núi theo thầy nhiều năm, chứ không thể học trong một lớp "đại trà", nơi chỉ thích hợp với những người định theo nghề "mãi võ bán thuốc".
Cũng như vậy, một nghệ sĩ dương cầm tài ba chỉ đào tạo cùng một lúc 5-10 học trò là cùng. Mà đào tạo trong nhiều năm. Như vậy mới có thể có Đặng Thái Sơn hay Tôn Nữ Nguyệt Minh. Không chỉ với "người tài" mà với mỗi người bình thường, nếu xét một cách "lý tưởng", thì cũng cần có phương pháp giảng dạy riêng thích hợp cho họ. Nhưng hiển nhiên là không thể cung cấp cho mỗi người một chương trình riêng, một hệ thống giáo viên riêng, như các vị thái tử ngày xưa với các quan thái phó! Vì thế, tất yếu phải làm giáo dục "đại trà"! Tuy nhiên, trong khi chưa thể có đủ trường, đủ lớp, đủ thầy giỏi cho một số đông, thì việc tập trung vào đào tạo một số ít nhằm "bồi dưỡng nhân tài" là một điều không thể tránh khỏi.
Cũng cần nói thêm một điều. Ở Việt Nam hiện nay, con em những gia đình khá giả có thể theo học những loại hình trường "quốc tế", trường "chất lượng cao" với học phí cũng cao ngất ngưởng (vượt quá tầm mà một người bình thường có thể hình dung, chưa nói là lo liệu được). Việc tạo điều kiện học tập tốt tương tự cho những học sinh tài năng xuất thân từ những gia đình nghèo hơn chỉ có thể nhờ vào Nhà nước. Trên thực tế, đã có rất nhiều em học sinh nghèo, nhờ được học ở các trường chuyên mà trở thành những người xuất chúng trong nhiều lĩnh vực. Như vậy, việc đầu tư vào hệ thống THPT chuyên đã góp phần đảm bảo công bằng xã hội.
Những điều nói trên có lẽ là lý do tồn tại hệ thống các trường THPT chuyên.
Ở những nước phát triển, hệ thống "giáo dục đại trà" đã đạt đến chất lượng nào đó. Hơn nữa, đối với những học sinh có năng khiếu hoặc ham thích môn học nào đó, những điều kiện để tiếp cận với tài liệu, sách báo, thầy giáo giỏi cũng hết sức dễ dàng. Những điều kiện như vậy có thể còn tốt hơn nếu so với những gì các học sinh THPT chuyên của chúng ta có được. Có lẽ đó là lý do mà ở các nước phát triển, nhu cầu về một hệ thống trường chuyên không được đặt ra. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là ở các nước Phương tây không tồn tại những trường THPT rất đặc biệt, mà thực chất, việc tuyển chọn học sinh, những điều kiện học tập ở đó cũng không khác gì "trường chuyên".
Lấy ví dụ ở nước Pháp. Không ai nói rằng ở Pháp tồn tại một hệ thống trường chuyên, nhưng ai cũng biết ở Pháp có một số trường Lycée nổi tiếng như: Louis le Grand, Henri IV, mà chỉ riêng việc là học sinh cũ của các trường đó đã là niềm tự hào suốt đời của nhiều người (xem: hồi ký André Weil). Không chỉ ở Paris, mà hầu như mỗi tỉnh của nước Pháp đều có một trường Lycée có thể xem là trường chuyên (Pierre de Fermat ở Toulouse là một ví dụ). Ở Mỹ, nếu nhìn vào danh sách những học sinh Mỹ đã từng được giải trong các kỳ IMO, ta thấy họ chỉ thuộc một số rất ít trường.
Như vậy, có thể nói rằng, hình thức tương tự THPT chuyên tồn tại ở hầu hết các nước, kể cả những nước có nền khoa học phát triển cao.
Tuy nhiên, điều cần bàn lại là: trong những trường đó, người ta dạy cái gì?
Dạy gì ở trường THPT chuyên?
Là một người nhiều năm quan tâm đến việc giảng dạy trong các lớp chuyên Toán, tôi chỉ xin được đề cập đến việc dạy toán. Tuy nhiên, có nhiều vấn đề có lẽ là chung cho việc giảng dạy, không chỉ với những môn "chuyên", không chỉ với môn Toán.
Mục tiêu của việc giảng dạy ở những lớp chuyên toán trước tiên là để phát triển năng khiếu toán học ở học sinh. Nhưng không chỉ có vậy, chúng ta cần những con người toàn diện. "Con người toàn diện", nói một cách cụ thể hơn, là người có khả năng đối diện với mọi thách thức của cuộc sống.
Nhiều ý kiến cho rằng, để có thể đạt mục tiêu đó, cần giảng dạy những gì "sát với thực tế của cuộc sống". Đúng là như vậy. Nhưng có điều quan trọng: hiểu thế nào là "sát thực tế"? Nếu như thực tế bây giờ đang cần cái gì, ta dạy học sinh cái đó thì e rằng sẽ không "sát thực tế" khi học sinh bước vào đời. Dạy họ làm cái ô tô chạy xăng thì khi ra đời, mọi ô tô có thể đã chạy bằng pin mặt trời! "Thực tế" thay đổi rất nhanh, nhất là trong thời đại công nghệ cao của hôm nay.
Nhưng có một "thực tế" không bao giờ thay đổi: để có thể thích ứng với mọi công nghệ mới, mọi lý thuyết mới, mọi thay đổi của xã hội, con người cần một kiến thức cơ bản thật vững chắc. Về cả tự nhiên và xã hội. Nhiều công ty, cơ quan phàn nàn về việc sinh viên ra trường chưa làm việc được ngay, mà phải "đào tạo lại". Nguyên nhân hoàn toàn không phải vì nhà trường không dạy những cái công ty đang cần (và hiển nhiên cũng không thể dạy tất cả những gì mà các công ty khác nhau đang cần), mà chính vì đã dạy chưa cơ bản.
Nếu sinh viên ra trường có kiến thức cơ bản vững chắc thì việc thích ứng với mọi công ty không phải là điều khó khăn. Không phải ngẫu nhiên mà ở nhiều nước châu Âu, các ngân hàng thường tuyển dụng sinh viên Toán, những người chưa hề có kỹ năng nghiệp vụ ngân hàng. Với số sinh viên này, "đào tạo lại" hoàn toàn không khó khăn, và họ sẽ thích ứng nhanh và làm việc hiệu quả.
Trang bị những kiến thức cơ bản chính là nhiệm vụ của các nhà trường. "Kiến thức" ở đây không phải là những gì mà ta có thể tìm thấy trên 'google" với một cái nhấp chuột. Đã qua cái thời con người cần nhớ thuộc lòng mọi thứ. Học sinh bây giờ cần những cái mà họ không thể "gúc" mà có được. Đó chính là phương pháp tư duy, khả năng tìm tòi những cái mới, khả năng thể hiện tường minh những ý nghĩ mơ hồ và bất chợt, khả năng làm việc và tìm tòi tập thể.
Toán học chính là một bộ môn tuyệt với để rèn luyện những kỹ năng đó.
Tuy nhiên, chữ "rèn luyện" có thể được hiểu là "luyện thi, rèn bài tập". Nếu như thế thì chỉ cần "học" hết hàng loạt sách đang bày bán, chẳng hạn sách "10.000 bài tập về...." là được. Một học sinh giỏi, làm hết các bài thi đại học trong nhiều năm, thì khi đi thi đại học dễ được điểm cao, thậm chí là thủ khoa.
Một học sinh rất giỏi và thường xuyên "luyện" bài tập khó "cỡ IMO" thì, nếu may mắn, có thể lọt đội tuyển IMO. Nhưng nếu chỉ như thế, nếu không được đào tạo cơ bản, những học sinh như vậy rất khó tiến xa. Điều này hoàn toàn tương tự như khi ta cho trẻ em tập gánh từ bé. Nếu từ năm 8, 9 tuổi, em bé đã được tập gánh, thì khi 15 tuổi, có thể sẽ gánh nặng hơn hẳn một em ở tuổi đó mà chưa hề tập gánh. Nhưng em bé được tập gánh sớm chắc chắn sẽ bị còi, không lớn lên được.
Và khi 18 tuổi, kết quả thế nào đã có thể nhìn thấy trước. Nếu chỉ chăm chú luyện bài tập khó, luyện"mẹo" mà ít rèn luyện kiến thức cơ bản nâng cao, chúng ta dễ làm các học sinh giỏi của mình đạt thành tích sớm, và cũng "còi" sớm về trí tuệ.
Để tránh tình trạng đó, ở nhiều nước người ta chú trọng bồi dưỡng cho học sinh lòng say mê khoa học, thông qua việc giới thiệu những thành tựu cao nhất của khoa học một cách dễ hiểu. Tìm đến với những thành tựu cao nhất cũng tức là tìm đến với cái cơ bản. Tất nhiên, để làm được điều này, người thầy phải cố gắng hơn rất nhiều, phải học hỏi thêm rất nhiều, chứ không như việc tìm bài tập "hóc búa, mẹo mực" về giảng cho học sinh. Nói cho cùng, người thầy cũng phải được đào tạo cơ bản!
Sau trường THPT chuyên, làm gì?
Sau những buổi "Vinh danh học sinh giỏi quốc tế", bao giờ cũng là cuộc bàn luận khá sôi nổi về người tài và việc sử dụng người tài. Vậy thì, những học sinh giỏi quốc tế có thể xem là "người tài" không, và cần bồi dưỡng, sử dụng họ thế nào?
Nhìn vào Uỷ ban danh dự các kỳ thi Olympic Toán học quốc tế, có thể thấy là tất cả các nước đều rất coi trọng kỳ thi này. Trong thành phần Uỷ ban, thường có sự tham gia của Tổng thống, Thủ tướng, Chủ tịch quốc hội, và tất nhiên là Bộ trưởng giáo dục. Nhiều Hoàng tử, Công chúa đã tham gia các buổi trao giải. Có thể nói, không chỉ ở nước ta người ta mới quan tâm đến kỳ thi Olympic.
Nói cho cùng, sự quan tâm của xã hội đối với các kỳ thi Oyimpic Toán quốc tế là hoàn toàn có cơ sở. Rất nhiều nhà toán học, vật lý nổi tiếng của thế giới đã trưởng thành từ "phong trào Olympic". Nếu nhìn lại nền toán học Việt nam hiện nay thì điều đó càng rõ ràng hơn: có thể nói tuyệt đại đa số các nhà toán học giỏi của nước ta đều đã từng được giải ở các kỳ thi Olympic quốc gia và quốc tế. Riêng việc lọt được vào đội tuyển 6 người của một đất nước 90 triệu dân như nước Việt Nam, thì việc gọi họ là "người tài" cũng không có gì quá đáng.
Tuy nhiên, nhìn kỹ lại thì thấy những người trong số đó mà về sau trở thành những tài năng thực sự trong khoa học thì thường là do được đào tạo lâu dài ở nước ngoài (đại học và sau đại học). Khi chúng ta chọn một đội tuyển 6 người, thì không thể nói những người còn lại là kém hơn hẳn. Đây là một cuộc thi đấu "thể thao", và có thể khẳng định ngoài 6 người đó ra, còn không ít người khác nữa cũng xứng đáng được gọi là "người tài". Những những "người còn lại" đó sẽ khó có được cơ hội tốt để phát triển tài năng như các bạn may mắn của mình.
Nguyên nhân là ở đâu?
Thành tích của học sinh phổ thông nước ta tại các kỳ thi Olympic quốc tế cho thấy rất rõ rằng, chúng ta có thể đào tạo được những học sinh phổ thông đạt trình độ đỉnh cao quốc tế ở hầu hết các môn học. Đó là một thành tích rất đáng tự hào. Nhưng nếu có cuộc thi "sinh viên giỏi quốc tế", tôi chắc thành tích của sinh viên ta sẽ không thể cao như vậy, và sẽ còn thấp hơn nếu có cuộc thi "cao học quốc tế", "nghiên cứu sinh quốc tế", và đặc biệt kết quả sẽ rất thấp nếu thi "giáo sư quốc tế"!
Dĩ nhiên không có các kỳ thi giả tưởng đó, vì không cần thi, người ta đã biết ai thắng, ai thua: chỉ cần nhìn vào sự phát triển của nền khoa học công nghệ mỗi nước là biết ngay. Vậy thì tại sao chúng ta càng ngày càng đuối sức trong cuộc chạy maratông đến mục tiêu cuối cùng là phát triển khoa học, kinh tế và xã hội? Nói cho cùng, tất cả đều do sự đầu tư công sức, tiền bạc của xã hội cho từng giai đoạn.
Thành tích cao của học sinh phổ thông của chúng ta phần nhiều do hệ thống trường chuyên mang lại. Các trường chuyên được sự quan tâm lớn của Nhà nước, và đặc biệt là các gia đình học sinh. Như vậy, sự đầu tư của xã hội cho một bộ phận học sinh giỏi của chúng ta ở bậc phổ thông có lẽ cũng không thua kém các nước khác. Tuy nhiên, sang đến bậc đại học và cao hơn nữa thì rất khác.
Chúng ta chưa đầu tư đúng mức đến việc xây dựng những trường đại học có thể ngang tầm quốc tế. Vậy mà đối với xã hội thì lớp người tốt nghiệp đại học mới thực sự là hạt nhân của sự phát triển, chứ đâu phải là học sinh tốt nghiệp phổ thông. Xem ra, người ta biết đầu tư đúng chỗ hơn ta. Bởi thế nên càng lên, họ càng vượt hẳn chúng ta. Trong khi mỗi tỉnh thành của chúng ta đều có một trường chuyên, không kể 4 trường chuyên phổ thông đặt ở các đại học (Đại học Khoa học tự nhiên hà Nội, Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Vinh, Đại học Khoa học tự nhiên TP HCM), thì chúng ta chưa có lấy một cơ sở đào tào sau đại học nào được đầu tư lớn để có thể hy vọng ngang tầm quốc tế .
Cũng như vậy, không nhiều giáo sư của chúng ta có được điều kiện làm việc "ngang tầm quốc tế", nên cũng khó hy vọng trong một thời gian gần, nền khoa học chúng ta có thể đạt được tầm cao mong muốn. Nói cho cùng, cần xem lại chính sách đầu tư trong giáo dục, và cần mạnh dạn có những đột phá trong đầu tư vào đào tạo đại học và sau đại học, như chúng ta từng đột phá trong việc xây dựng các lớp chuyên phổ thông để có kết quả như ngày hôm nay.
Tôi vẫn thường khuyên một số học sinh của mình sau khi các em được huy chương vàng: hãy quên ngay thành tích đó, và nếu có nhớ thì cũng chỉ nên nhớ về nó như một kỷ niệm đẹp của thời học sinh, chứ không phải như một thành công trong cuộc đời. "Vinh danh" học sinh giỏi cũng là điều tốt, nhưng nên nhớ rằng, vinh quang bao giờ cũng đồng thời là một gánh nặng, nhất là đối với tuổi trẻ.
Nếu như các bạn trẻ cần quên ngay tấm huy chương vừa nhận được, thì các nhà quản lý lại đừng bao giờ quên tấm huy chương đó, vì nếu biết đầu tư đúng lúc, từ những tấm huy chương Olimpic, xã hội có thể có những tài năng thực sự, những người mang lại lợi ích lớn lao cho nước nhà".
Đã đến lúc nên tổ chức lại mô hình hoạt động của trường chuyên? Cuộc tranh luận được xới xáo gần đây xoay quanh quan điểm của Tiến sỹ Nguyễn Đức Thành về đề xuất nên đóng cửa trường Amsterdam. Cứ đến mùa tuyển sinh hàng năm, câu chuyện đầu vào trường chuyên (gồm cả cấp trung học cơ sở, trung học phổ thông) với những cuốn học bạ "đẹp" đến khó tin và những lựa chọn...