Đề án đào tạo Tiến sĩ 911: Chơi vơi 14.000 tỷ đồng
Kết quả Kiểm toán nhà nước về Đề án đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ các trường ĐH, CĐ giai đoạn 2006 -2020, giai đoạn 2012 – 2016 (gọi tắt là đề án 911) cho thấy, các mục tiêu về tuyển sinh của đề án đều không đạt. Số tiền phải thu hồi để nộp ngân sách nhà nước lên đến hàng chục tỷ đồng.
ảnh minh họa
Mục tiêu cao
Đề án Đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường ĐH, CĐ giai đoạn 2010 – 2020 theo Quyết định 911/QĐ-TTg ngày 17/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ (Đề án 911) có tổng kinh phí 14 nghìn tỷ đồng với mục tiêu đào tạo 23 nghìn tiến sĩ. Tuy nhiên, đề án triển khai đến hết năm 2016 đã bộc lộ hàng loạt hạn chế, không đạt mục tiêu đề ra, Bộ GD&ĐT đã dừng tuyển sinh từ năm 2017.
Theo báo cáo của Kiểm toán Nhà nước Đề án có mục tiêu là trong giai đoạn 2010-2020 đào tạo khoảng 10 nghìn tiến sĩ ở nước ngoài tại các trường ĐH có uy tín trên thế giới; đào tạo khoảng 3.000 tiến sĩ theo hình thức phối hợp, liên kết đào tạo giữa các trường ĐH trong nước và trường ĐH nước ngoài; đào tạo khoảng 10 nghìn tiến sĩ ở trong nước. Tổng kinh phí thực hiện Đề án 911 dự kiến là 14 nghìn tỷ đồng; trong đó, đào tạo toàn phần ở nước ngoài chiếm khoảng 64%, đào tạo phối hợp chiếm khoảng 14%; đào tạo trong nước chiếm khoảng 20%, đào tạo ngoại ngữ và các kỹ năng khác ở trong nước chiếm khoảng 2%. Nguồn kinh phí thực hiện đề án gồm: Ngân sách nhà nước (94%); từ các dự án nước ngoài và nguồn xã hội hóa (5%); các nguồn kinh phí khác như học phí, đóng góp của các nhà trường (1%).
Tổng kinh phí đề nghị quyết toán của Đề án 911 giai đoạn 2012-2016 là hơn 1.400 tỷ đồng. Tuy nhiên, quá trình triển khai, kinh phí phân bổ qua các năm chưa phù hợp với nhiệm vụ chi, phải hủy dự toán hoặc phải chuyển năm sau để chi, làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn kinh phí.
Bộ GD&ĐT chưa ban hành văn bản riêng, cụ thể về công tác kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng kinh phí đề án. Kiểm toán Nhà nước đã kiến nghị về xử lý tài chính đối với Bộ GD&ĐT, thu hồi nộp ngân sách Nhà nước gồm: Học phí của nghiên cứu sinh (NCS) tại Cục Hợp tác quốc tế (từ năm 2012 đến 30/7/2017) hơn 50 tỷ đồng; các khoản chi sai chế độ, không đúng quy định hơn 424 triệu đồng; thu hồi kinh phí do NCS bỏ học hơn 207 triệu đồng. Ngoài ra, Bộ GD&ĐT phải hủy dự toán nguồn kinh phí đề án hơn 2,8 tỷ đồng và giảm kinh phí quyết toán năm 2016 hơn 48 triệu đồng. Đối với các bộ, ngành kiểm tra đối chiếu tổng số xử lý tài chính là hơn 6,3 tỷ đồng.
Video đang HOT
Cần tháo gỡ những bất cập trong cơ chế, chính sách để thu hút NCS. Ảnh: Hồng Vĩnh.
Hiệu quả thấp
Một trong số những bất cập của Đề án 911 được Kiểm toán nhà nước chỉ ra đó là xây dựng đề án quá cao, thiếu cơ sở khảo sát, đánh giá và không sát thực tế, dự kiến nguồn tuyển sinh không đúng dẫn đến mục tiêu không thực hiện được cả về số lượng đào tạo tiến sĩ, kinh phí và nguồn hình thành.
Mục tiêu đặt ra trong Đề án 911 từ năm 2012 đến 2016 tổng chỉ tiêu đào tạo của đề án là 12.800 tiến sĩ (gồm 5.700 chỉ tiêu đào tạo trong nước, 5.800 chỉ tiêu đào tạo ở nước ngoài và 1.300 chỉ tiêu đào tạo phối hợp). Tuy nhiên, kết quả đạt được tính đến hết năm 2016 khá thấp. Cụ thể, giai đoạn 2012-2016, mới tuyển được 2.062 NCS đào tạo trong nước, đạt 36% chỉ tiêu. Trong đó, có 703 NCS đến thời hạn kết thúc thời gian nghiên cứu nhưng mới chỉ có 165 NCS hoàn thành khóa học, bảo vệ thành công luận án đúng thời hạn (đạt tỷ lệ hơn 23%); còn lại, có tới 538 NCS (gần 77%) bảo vệ luận án chậm hoặc chưa bảo vệ luận án. Trong số NCS được tuyển có 143 người bỏ học hoặc chuyển sang nghiên cứu đại trà.
Đối với công tác đào tạo phối hợp, chỉ có một NCS đang học tập nghiên cứu tại Pháp, trong số 1.300 chỉ tiêu của giai đoạn 2012-2016. Trong khi đó, từ năm 2012 đến hết năm 2016, có 2.926 người trúng tuyển đào tạo ở nước ngoài nhưng chỉ có 1.961 người (đạt gần 34% chỉ tiêu) được làm thủ tục đi học. Điều đáng nói, số tuyển sinh đào tạo ở nước ngoài nêu trên không phải hoàn toàn do Đề án 911 thực hiện, mà có 655 người thuộc danh sách do Đề án 356 (đề án đào tạo tiến sĩ giai đoạn 2005-2010) tuyển vượt chỉ tiêu theo quy định chuyển sang. Vì vậy, kết quả tuyển sinh đào tạo ở nước ngoài của Đề án 911 thực chất chỉ có 1.306 NCS (gần 23% so với chỉ tiêu). Trong đó, có 549 NCS hoàn thành khóa học, bảo vệ thành công luận án (tốt nghiệp đúng thời hạn là 387 người, còn lại tốt nghiệp chậm từ một đến hai năm); 186 NCS hết thời hạn nghiên cứu nhưng chưa tốt nghiệp. Ngoài ra, có 45 NCS ở nước ngoài bỏ học.
Đáng nói, với hình thức đào tạo trong nước, theo báo cáo của Kiểm toán Nhà nước, các quy định về chương trình đào tạo; các điều kiện đầu vào; điều kiện đầu ra đào tạo tiến sĩ của Đề án 911 được Bộ GD&ĐT quy định yêu cầu cao hơn so với quy chế đào tạo tiến sĩ nói chung. Tuy nhiên, các NCS bảo vệ thành công và công nhận tốt nghiệp không khác biệt nhiều so với đào tạo tiến sĩ đại trà. “Không đi thực tập nước ngoài; giáo trình chung không có sự khác biệt; không có thời gian đào tạo tập trung; các công trình nghiên cứu khoa học dừng ở cấp cơ sở, số NCS tham gia đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ không nhiều”- báo cáo nêu rõ.
Về bất cập hạn chế trong thực hiện đề án và nguyên nhân, báo cáo của Kiểm toán nhà nước chỉ rõ do các cơ chế, chính sách bất cập chậm được tháo gỡ, mức kinh phí hỗ trợ của đề án thấp, các nội dung chi và điều kiện để hỗ trợ kinh phí nhiều vướng mắc, trong khi yêu cầu trách nhiệm ràng buộc của NCS cao.
Theo TPO
Đề xuất rút ngắn năm học
UBND TP.HCM kiến nghị cần có sự linh hoạt trong một số quy định, cụ thể: định hướng mở trong biên chế năm học, thay vì 9 tháng/năm học như hiện nay thì có thể rút ngắn lại...
Đối mặt với áp lực ùn tắc giao thông, kẹt xe nên TP.HCM kiến nghị cần có sự linh hoạt trong biên chế năm học
Liên thông trong toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân, luật hóa một số hình thức học tập không chính quy, học qua mạng internet, thay đổi biên chế năm học... là những kiến nghị của UBND TP.HCM ngày 25.12 gửi Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung luật Giáo dục.
Cho học sinh nước ngoài học trường công
Theo UBND TP.HCM, nhằm đảm bảo mục tiêu học tập suốt đời, tăng tính phân luồng, bên cạnh hệ thống trường năng khiếu về thể dục thể thao, cần xây dựng hệ thống các trường chuyên về thẩm mỹ, nhạc, họa... giúp đào tạo chuyên sâu từ nhỏ cho những học sinh (HS) sớm bộc lộ năng khiếu. Đặc biệt, cần nghiên cứu thêm các quy định để HS nước ngoài có thể học tập chương trình phổ thông của VN tại các trường công lập vì hiện nay người nước ngoài ở trên địa bàn TP rất nhiều.
UBND TP.HCM cũng kiến nghị điều chỉnh độ tuổi giáo dục mầm non tại điều 21 luật Giáo dục thành "từ 6 tháng tuổi đến 6 tuổi" để phù hợp với luật Bảo hiểm xã hội. Đồng thời, điều chỉnh điều 25 về cơ sở giáo dục mầm non, cụ thể: "Cơ sở giáo dục mầm non bao gồm: Nhà trẻ, nhóm trẻ nhận trẻ từ 6 tháng tuổi đến 3 tuổi; trường, lớp mẫu giáo nhận trẻ em từ 3 tuổi đến 6 tuổi; trường mầm non là cơ sở giáo dục kết hợp nhà trẻ và mẫu giáo, nhận trẻ em từ 6 tháng tuổi đến 6 tuổi".
"Hiện nay có hàng trăm ngàn công nhân làm việc ở các KCX, KCN ở TP, nhu cầu gửi con rất lớn để trở lại làm việc sau khi sinh. Nếu vẫn giữ quy định như hiện nay, rất nhiều bậc phụ huynh khó khăn trong việc tìm chỗ gửi con", bà Nguyễn Thị Thu, Phó chủ tịch UBND TP.HCM, nói.
Linh hoạt giờ học
TP.HCM hiện có 2.144 trường học với 42.671 phòng học, 76.277 giáo viên, 1,6 triệu HS từ bậc mầm non đến THPT. Những năm học gần đây, bình quân mỗi năm TP tăng khoảng 60.000 HS, có năm tăng hơn 80.000. Ngoài áp lực về phòng học, giáo viên, TP còn đối mặt với áp lực ùn tắc giao thông, kẹt xe nên từng đặt ra vấn đề học "lệch giờ" nhưng đến nay vẫn chưa có cơ sở để thực hiện. Do đó, TP kiến nghị cần có sự linh hoạt trong một số quy định, cụ thể: định hướng mở trong biên chế năm học, thay vì 9 tháng/năm học như hiện nay thì có thể rút ngắn lại; cơ cấu giờ, tiết học linh hoạt để tiếp cận xu hướng thế giới và giảm ùn tắc giao thông, phù hợp đặc điểm của địa phương; cho phép sĩ số lớp học linh hoạt theo loại hình trường và đặc điểm địa phương.
Cần cơ chế cho mô hình mới
Cũng theo UBND TP.HCM, luật Giáo dục định nghĩa "nhà giáo" không bao gồm các cán bộ quản lý giáo dục nên gây khó khăn khi điều chuyển, bổ nhiệm các nhà giáo giỏi về công tác tại các đơn vị quản lý giáo dục. Việc triển khai thực hiện một số mô hình thí điểm tại TP.HCM như mô hình "trường tiên tiến, hiện đại theo xu hướng hội nhập khu vực và quốc tế", "trường tự chủ"... chưa được quy định trong luật Giáo dục nên gặp khó khăn (các trường theo mô hình tiên tiến phải đóng thuế). Do đó, cần sớm có cơ chế để phát huy thế mạnh của những mô hình trường học mới.
Không quy định tuổi quản lý với chủ tịch hội đồng trường ?
Nhiều vấn đề về tự chủ nhân sự trong trường ĐH đã được nêu ra tại hội thảo hoàn thiện chính sách, pháp luật về tự chủ ĐH do Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng (Quốc hội) tổ chức sáng 25.12.
Một điểm khá mới trong dự thảo bổ sung, sửa đổi một số điều của luật Giáo dục ĐH là không quy định độ tuổi với chủ tịch hội đồng trường. Điều này có nghĩa, người về hưu có thể được bổ nhiệm vào vị trí này trong hệ thống trường ĐH công lập. Tuy nhiên theo PGS-TS Mai Hồng Quỳ, Hiệu trưởng Trường ĐH Luật TP.HCM, điều này còn có sự mâu thuẫn với Nghị quyết 19 khi yêu cầu chủ tịch hội đồng trường phải là Bí thư Đảng ủy mà người nằm trong cấp ủy thì không được quá tuổi quản lý theo quy định hiện hành.
Trong khi đó, PGS-TS Đỗ Văn Dũng, Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm kỹ thuật TP.HCM có những kiến nghị về sở hữu tài sản trong trường công lập. Ông Dũng cho rằng cần phải nhanh chóng đưa vào luật việc bỏ cơ quan chủ quản.
Theo TNO
Hàng nghìn tỷ đồng và "giấc mơ" tiến sĩ Từ năm 2000 đến nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD và ĐT) được giao chủ trì thực hiện nhiều đề án có kinh phí từ hàng trăm tỷ đồng đến hơn 10 nghìn tỷ đồng để đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có trình độ tiến sĩ. Tuy nhiên, có những đề án nguồn kinh phí rất...