Dạy nghề để phát triển làng nghề: Hướng đi hiệu quả
Theo khảo sát của Hiệp hội làng nghề Việt Nam, hiện có tới 90,4 % số làng nghề truyền thống thiếu lao động. Do vậy, việc triển khai thành công thí điểm ba mô hình đào tạo nghề nêu trên đã mở ra hướng đi mới trong đào tạo nghề cho LĐNT hiện nay.
Trong khuôn khổ lễ hội “Sắc màu làng nghề trên quê hương nhà Lý”, ngày hôm qua (22/12) tại Bắc Ninh, Hiệp hội làng nghề Việt Nam phối hợp với Tổng cục Dạy nghề tổ chức tổng kết đánh giá thí điểm dạy nghề tiểu thủ công nghiệp cho lao động nông thôn (LĐNT) để phát triển làng nghề. Theo đánh giá, cả ba mô hình thí điểm đều có hiệu quả tốt, có khả năng nhân rộng ra nhiều địa phương khác.
Triển vọng bước đầu
Triển khai Đề án đào tạo nghề cho LĐNT theo Quyết định 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ, từ năm 2010, Hiệp hội làng nghề Việt Nam phối hợp với Tổng cục Dạy nghề triển khai thí điểm 3 mô hình đào tạo nghề tiểu thủ công nghiệp cho LĐNT, gồm: Đào tạo nghề để xây dựng làng nghề mới và khôi phục làng nghề đã bị mai một; Đào tạo nghề kết hợp với xây dựng vùng nguyên liệu và bao tiêu sản phẩm; Đào tạo nghề, tổ chức việc làm để duy trì, phát triển làng nghề truyền thống. Sau hai năm triển khai, đến nay đã có 2.149 LĐNT được đào tạo với trên 20 nghề thủ công, thời gian đào tạo từ 3 – 5 tháng/nghề.
Nghề làm nón tại làng Chuông, huyện Thanh Oai, Hà Nội. Images: Thiên Tú.
Phó Vụ trưởng Vụ Kiểm định chất lượng dạy nghề (Tổng cục Dạy nghề) Phạm Vũ Quốc Bình cho biết, trước khi triển khai, cơ sở đào tạo phải ký hợp đồng đảm bảo 80% người học sau đào tạo có việc làm hoặc có khả năng tự tạo việc làm. Do đó, kết thúc các lớp thí điểm, cơ bản người lao động có việc làm, tăng thu nhập. Trong đó riêng với mô hình thứ ba, 80 – 90% số học viên sau khi tốt nghiệp được các cơ sở đào tạo tạo việc làm theo hình thức giao khoán sản phẩm với thu nhập bình quân từ 1,2 – 5 triệu đồng/người/tháng.
Tại Hà Nội, Trung tâm Khoa học và Công nghệ phát triển làng nghề đã hỗ trợ triển khai mô hình đào tạo nghề mây tre đan và thêu tranh phong cảnh để xây dựng làng nghề mới tại xã Cổ Đô, huyện Ba Vì. Kết thúc chương trình thí điểm đã có 120 học viên nông dân được đào tạo nghề. Bà Nguyễn Thị Hương, Giám đốc Trung tâm cho biết, hiện ở Cổ Đô đang dần hình thành làng nghề mây tre đan. Người lao động đã có thể mang nguyên liệu về gia công tại nhà với mức thu nhập 1,5 triệu đồng/người/tháng.
Cần sự tham gia của xã hội
Theo khảo sát của Hiệp hội làng nghề Việt Nam, hiện có tới 90,4 % số làng nghề truyền thống thiếu lao động. Do vậy, việc triển khai thành công thí điểm ba mô hình đào tạo nghề nêu trên đã mở ra hướng đi mới trong đào tạo nghề cho LĐNT hiện nay. Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Việt Nam Vũ Quốc Tuấn cho rằng, vấn đề đặt ra là làm sao đào tạo nghề đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh của mỗi địa phương, tránh tình trạng “dạy cái ta có không dạy cái thị trường cần”. Muốn làm được điều đó, cần thu hút sự tham gia của các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, xã hội hóa việc đào tạo nghề chứ không chỉ trông chờ vào hệ thống trường lớp của các cơ sở công lập.
Video đang HOT
Cùng với đó, sự vào cuộc tích cực của chính quyền địa phương và tổ chức xã hội ở cơ sở có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là trong khâu khảo sát nhu cầu học nghề và công tác tuyển sinh. Thực tế cho thấy, nếu không có sự chỉ đạo của chính quyền địa phương và sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị – xã hội ở địa phương, công tác tuyển sinh sẽ khó đạt kết quả như mong muốn. Đặc biệt, theo nghệ nhân Phạm Trần Canh, làng nghề nón Chuông, huyện Thanh Oai, để triển khai tốt các lớp dạy nghề, cần hỗ trợ nguồn vốn vay cho lao động để phát triển sản xuất sau học nghề. Đồng thời, có chính sách khuyến khích nghệ nhân, thợ giỏi tham gia dạy nghề truyền thống và khuyến khích doanh nghiệp tiếp nhận lao động hoặc nhận bao tiêu sản phẩm lâu dài cho người lao động sau khi học nghề.
Nhiều ý kiến cũng cho rằng, để mở rộng các lớp đào tạo nghề cho LĐNT theo ba mô hình trên, Nhà nước cần có quy hoạch tổng thể phát triển làng nghề trên cả nước. Trên cơ sở đó, các địa phương lập quy hoạch xây dựng phát triển làng nghề của địa phương mình để có hướng đào tạo nhân lực phù hợp.
Theo BĐVN
Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực "học phải đi đôi với hành"
"Vấn đề ở ĐBSCL hiện nay khng phải là thiếu trường CĐ, ĐH hay dạy nghề, mà là thiếu chất lượng. Làm sao để cải thiện được chất lượng, có thực tiễn làững vấn đề cần phải quan tâm nhiều hơn trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho vùng".
Trên là ý kiến chia sẻ thẳng thắn của TS. Võ Hùng Dũng - giám đốc Phòng Cng nghiệp & Thương mại (VCCI) chi nhá TP Cần Thơ nêu ra trong hội thảo về "Phát triển giáo dục ĐBSCL" vừa được Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ, Báo Nng thn ngày nay, các trường ĐH, CĐ và các Sở GD-ĐT khu vực ĐBSCL tổ chức tại TP Cần Thơ.
ĐBSCL khng thiếu trường ĐH, CĐ, dạy nghề
Tại buổi hội thảo, TS. Võ Hùng Dũng - giám đốc VCCI chi nhá TP Cần Thơ cho rằng, hạ tầng cơ sở và nguồn nhân lực vẫn là haiểm yếu lớn nhất của vùng ĐBSCL. "Nếu như giao thng có thể được tăng cường đầu tư và mang lại kết quả ngay sau đầu tư thì GD phải có độ trễ mới thấy được hiệu quả của nó. Trong nhiều năm qua việc đầu tư cho ngà GD ở ĐBSCL dường như vẫn chưa tương xứng, phải chăng là lĩ vực đào tạo đang thiếu sự quan tâm? "- TS. Dũng nêu quan ngại.
Theo TS. Võ Hùng Dũng, sự phân hóa giàu nghèo vàu cầu chi tiêu cho việc c đã và đang là mối lo của nhiều hộ gia đì, đặc biệt là khu vực nng thn. Tỷ lệ c sinh (HS) bỏ c còn nhiều và đang có xu hướng gia tăng. Bên cạ đó, thống kê cho thấy tỷ lệ HS trên 1.000 dân đang có chiều hướng giảm, từ 110,1 năm 2002 xuống còn 86,8 năm 2010. Ngoài ra, trì độ đào tạo chuyên mn từ sơ cấp, trung cấp đến ĐH ở ĐBSCL cũng nằm ở tỷ lệ thấp nhất (ĐBSCL có tỷ lệ là 2%, so với 2,7% của Trung du và miền núi phía bắc, và 6,3% của vùng ĐB sng Hồng).
"Nỗi buồn của khu vực là trong danh sách 15 tỉ, thà có vị trí cao nhất về c vấn lại khng có địa phương nào của ĐBSCL; ngay cả với TP Cần Thơ là TP duy nhất trong 5 TP trực thuộc Trung ương cũng khng nằm trong danh sách nói trên" - TS. Dũng cho biết.
ĐBSCL khng thiếu những trường ĐH, CĐ có cơ sở vật chất hiện đại.
TS. Võ Hùng Dũng cũng cho rằng, yếu kém về c vấn và đào tạo chuyên mn khng phải là vấn đề mới mà đã được phát hiện từ lâu, thậm chí nó còn được xem là điểm yếu chí tử của vùng, ả hưởng rất lớn phát triển kinh tế. Số sinh viên (SV) Trung c chuyên nghiệp, CĐ, ĐH ở khu vực ĐBSCL đều thấp so với các vùng khác trong cả nước. "Điều này cho thấy đào tạo ở ĐBSCL cung cấp nguồn nhân lực còn hạn chế so với vùng miền khác là thấp ởiều cấp độ, đặc biệt càng lên cao, tỷ lệ này càng gia tăng. Và một thực tế cho thấy, sau nhiều năm phấn đấu, nỗ lực, tỉ nào cũng đá giá là có tiến bộ vượt bật, nhưng kết quả qua vẫn chưa có thay đổáng kể" - TS. Dũng thẳng thắn.
Số tỷ lệ HS, SV tốt nghiệp trường đạo tạo nghề so với lao động chưa qua đào tạo là rất thấp (với tỷ lệ ĐBSCL là 1,76%, trong khi cả nước là 4,18%, vùng Đng Nam bộ là 5, 02%...). TS. Võ Hùng Dũng nhấn mạ, GD-ĐT cả nước nói chung và riêng vùng ĐBSCL vẫn còn nhiều việi giải quyết mặc dù đang cóững thay đổi, song nhu cầu xã hộang đặt ra ngày càng nhiều thách thức cho lĩ vực này, đặc biệt là đào tạo bậc cao và đào tạo nghề cho lao động phục vụ cho phát triển kinh tế.
"Vấn đề ở ĐBSCL hiện nay khng phải là thiếu trường CĐ, ĐH hay dạy nghề, mà là thiếu chất lượng. Các trường ĐH, CĐ trong vùng hiện nay là kháiều, mỗi tỉ có ít nhất là 1 trường ĐH, 1 trường CĐ, 1 trường trung cấp nghề, một số địa phương con số này nhiều hơn...ưng chất lượng lại chỉ ở vào mức trung bì. Như vậy, số lượng tăng của các trường là do đâu? Làm sao để cải thiện được chất lượng, đào tạo có thực tiễn làững vấn đề cần quan tâm giải quyết nhiều hơn" - TS. Dũng nêu quan điểm.
Giám đốc VCCI chi nhá TP Cần Thơ cũng đặt câu hỏi: "ĐBSCL vẫn tiếp tục thiếu hụt lao động so với nhu cầu phát triển, đặc biệt là lao động có kỹ năng. Vậy trách nhiệm của các trường ĐH, CĐ sẽư thế nào để đóng góp cho sự nghiệp phát triển này? Thực tế cho thấy có sự chê lệch giữa đào tạo của trường và sử dụng lao động của doanh nghiệp (DN), trách nhiệm khng chỉ nằm ở số lượng đào tạo, mà là đào tạo để làm gì? Giải quyết gì cho xã hội, cho nền kinh tế? "
Trong khó, theo TS. Nguyễn Văn Quang - phó hiệu trưởng Trường ĐH Tây Đ, trong bối cả hội nhập và phát triển hiện nay, các DN sẵn sàng ưu đãi cho những lao động trong nước hoặc ngoài nước thích nghi, có trì độ, có kinh nghiệm thực tiễn với việc làm. Song, điều băn khoăn lo lắng hiện nay đối SV mới tốt nghiệp ra trường chưa thích ứng được với mi trường và việc làm của DN.
TS. Quang cho biết, nguyên nhân có thực trạng này do khung chương trì đào tạo của các cơ sở đào tạo ĐH hiện nay còn tí hàn lâm, chưa thay đổi, cập nhật các kỹ năng để đáp ứng được yêu cầu sử dụng của các DN; Một sốà giáo dạy ĐH còn trẻ, kinh nghiệm thực tiễn chưa nhiều, nghiên cứu khoa c còn hạn chế chưa thu hút và truyền đạt kinh nghiệm được cho SV; bản thân SV hiện nay c còn thụ động, việc đào sâu suy nghĩ thêm rèn các kỹ năng, kinh nghiệm nghề nghiệp, các vấn đề xã hội còn rất hạn chế.
"Ngoài ra, xu thế truyền thống "cũ kỹ" của nhân dân ta hiện nay còn mang nặng khoa cử "con cháu phải là cửân, kỹ sư, tốt nghiệp đại c" mặc dù biết rằng sức c của con cháu có hạn. Năm nay khng đậu thì c tiếp tục sang năm thi nữa nhưng nếu cứ tiếp tục nhiều lần thi ĐH mà khng đậu thì v hì chung đã làm lỡ cơ hội việc làm cho các em" - phó hiệu trưởng Trường ĐT Tây Đấn mạ.
Đào tạo nên chú trọng kỹ năng, chất lượng thực tế cho HS, SV
TS. Nguyễn Văn Quang - phó hiệu trưởng Trường ĐH Tây Đ nêu quan điểm: "SV nên cn cao đẳng nghề; tốt nghiệp ĐH là mục tiêu phảạt; Thạc sĩ, Tiến sĩ là mục tiêu phấn đấu. Cho nên vai trò dạy nghề gồm sơ cấp nghề, cao đẳng nghề, trung cấp chuyên nghiệp, CĐ, ĐH... là rất quan trọng trong giaoạn hiện nay".
Theo TS. Quang, một HS sau khi tốt nghiệp THPT nếu đậu được vào một trường ĐH liền ngay năm tốt nghiệp thì rất tốt. Tuy nhiên, nếu khng đậu vào ĐH thì nên đăng ký xét tuyển vào cao đẳng nghề theo ngà nghề mà mì yêu thích. Sau 3 năm c tốt nghiệp ra trường, các em tìm một cng việc để làm. Khi nghề nghiệp đã ổn đị, thi tuyển vào c liên thng ĐH chí qui thì các em vẫn có bằng ĐH chí qui nhưững SV c ĐH khác, dù phải theo con đường vòng.
Phó hiệu trưởng Trường ĐH Tây Đ đá giá, có thể nói hiện nay m hì trên phù hợp vớa số HS đã tốt nghiệp THPT ở ĐBSCL có hoàn cả gia đì khó khăn hoặc khả năng c tập hạn chế khng đậu được vào ĐH nào trong năm tốt nghiệp THPT. "Có nghề nghiệp ổn đị, sau khi tốt nghiệp ĐH các em còn có thể c lên Thạc sĩ, làm nghiên cứu sinh Tiến sĩ khi muốn mở rộng và phát triển nghề nghiệp, mở rộng DN, cống hiến nhiều hơn nữa cho xã hội- đây là mục tiêu phấn đấu" - TS. Quang nhấn mạ.
Còn ng Đào Duy Tùng- Viện Nghiên cứu Kinh tế Quản trị kinh doanh (thuộc Bộ Khoa c - Cng nghệ) cho rằng, nền giáo dục ĐH của Việt Nam đang có sự cách biệt quá lớn giữa đào tạo và sử dụng, giữa cung và cầu vềân lực. Thực tế cho thấy một bộ phận khng nhỏ SV ra trường khng tìm được việc làm; trong khi các DN, các khu cng nghiệp lại thiếu trầm trọng lao động đã qua đào tạo theo đúng nhu cầu của .
Có một nghịch lý ở vùng ĐBSCL, theo ng Tùng đó là: "Tây Nam Bộ là vựa lúa, thủy sản, cây ăn trái nhưng tỷ lệ SV theo c nng nghiệp, thủy sản ở bậc ĐH chỉ 10%, cao đẳng 5%. Trong khó, tỷ lệ SV theo c kinh tế chiếm đến 30%, kỹ thuật cng nghệ chiếm 20%. Đây là một bất hợp lý trong việc phát triển nhân lực".
Ông Tùng cũng ví von thêm, SV tốt nghiệp ĐH được xem như là "sản phẩm" của các trường ĐH đó. Muốn có "sản phẩm" tốt thì trước tiên những người tạo ra "sản phẩm" đó phải có "trì độ sản xuất" đạt chuẩn. Nhưng theo đá giá của Vụ ĐH và sau ĐH, trong năm c vừa qua, số giảng viên trì độ Thạc sĩ, Tiến sĩ tăng 11,9%, nhưng tổng số giảng viên lại tăng thêm hơn 3.500 người chủ yếu chỉ có trì độ ĐHư vậy tỷ lệ giảng viên đạt chuẩn dạy ĐH lại giảm xuống.
"Một thực tế khác cũng cho thấy, SV khi ra trường nếu chỉ vận dụng những kiến thức được dạy thì sẽ khó làm được việc, còn nếu muốn được việc thì phải biết những thứ "nằm ngoài sách vở". Khó, nhiều SV lại băn khoăn mì c ngà này ra trường sẽ nên xin làm việc gìiều SV yếu về ngoại ngữ, tin c và kỹ năng "mềm" xin việc cũng rất khó khăn; Một số trường khng đổi mới phương pháp dạy và c nên SV ra trường rất thiếu kỹ năng "mềm" vì tì trạng "c khng đ". Do đó dẫn đến tì trạng các DN chê "sản phẩm" của trường kém chất lượng nên phảào tạo lại mới sử dụng được là khó trá khỏi" - ng Tùng nêu nhận đị.
Theo ng Đào Duy Tùng, SV ra trường chưa đáp ứng nhu cầu cóiều nguyên nhân, song có nguyên nhân lớn đó là thiếu sự liên kết trên thực tế giữa "à trường - sinh viên và doanh nghiệp". Ông Tùng cho rằng, để giải quyết tì hì trên, các trường cần rút ngắn thời gian đào tạo khoảng 120 tín chỉ và tăng kỹ năng nghề nghiệp thng qua việc mời những chuyên gia tại các cng ty, DN tham gia giảng dạy để truyền đạt kỹ năng thực tế cho SV.
Bên cạ đó, các DN, nhà tuyển dụng lao động cần hỗ trợ, tạo điều kiện cho SV thực tập, làm quen với mi trường lao động nghề nghiệp. "Song, khng chỉ DN hay sự nỗ lực của bản thân SV là đủ mà các thầy c giáo chí làững người gá trách nhiệm lớn trong quá trì đào tạo cũng phải tự cập nhất kiến thức, cng nghệ, kỹ thuật mớể có cơ sở giảng dạy cho SV" - ng Tùng đề nghị.
Còn theo TS. Võ Hùng Dũng - giám đốc VCCI chi nhá TP Cần Thơ, giải quyết vấn đề đào tạo nghề, GD bậc cao... là giải quyết vấn đề của xã hội, vấn đề con người và của sự phát triển. Chí vì thế cần đặt ra trách nhiệm đối chí quyền địa phương một cách rõ ràng hơn thng qua sự quan tâm một cách cụ thể, chứ khng dừng lại là "sự chỉ đạo" hay "tăng chi ngân sách là đủ".
Huỳ Hải
Theo dân trí
Trả dạy nghề cho trường nghề Phải bỏ chi phí lớn để đầu tư mọi mặt nhưng ngày càng thưa vắng người học nghề dài hạn, các trường nghề phải xoay xở bằng nhiều cách để tồn tại. Tuy nhiên, về lâu dài các trường đều kiến nghị các trường ĐH, CĐ phải trả việc dạy nghề cho trường nghề. Học sinh Trường TCN Nhân Đạo thực hành trong...