Cuộc đời cô Duyên và lá đơn lên rừng bị nhiều người ngăn cản
Nhắm mắt, nín thở để kéo từng con vắt ra làm ám ảnh nhiều đêm liền không ngủ được, cứ thảng thốt, thất thần vì sợ. Những vết cắn bầm tím hàng tuần chưa phai.
Là giáo viên nhưng chúng tôi may mắn được dạy miền xuôi và khá gần nhà.
Cô Phan Thị Duyên giáo viên Trường Tiểu học Mường Típ 1 huyện Kỳ Sơn tỉnh Nghệ An (Ảnh nhân vật cung cấp)
Dù nghề giáo bây giờ áp lực nhiều, gian khó cũng lắm nhưng nghe những câu chuyện của đồng nghiệp dạy nơi miền biên giới xa xôi, vùng đặc biệt khó khăn của cả nước, chúng tôi chỉ biết thốt lên những lời nói tự đáy lòng: “nghiêng mình khâm phục!”
Lá đơn tình nguyện lên vùng sâu giảng dạy khiến nhiều người ngăn cản
Năm 2006, vừa ra trường một năm và đang dạy học hợp đồng tại Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An cô Phan Thị Duyên bất ngờ làm đơn xin chuyển lên vùng núi Kỳ Sơn giảng dạy cách gia đình khoảng 200km.
Quyết định của cô khá bất ngờ cho bạn bè, đồng nghiệp. Nhiều người khuyên cô suy nghĩ lại vì có thể chôn vùi tuổi thanh xuân nơi rừng thiêng nước độc.
Đường đi vào các điểm trường quanh co, đồi dốc, ngày mưa trơn trượt dễ mất mạng trên các khe núi, rồi muỗi, vắt, rắn rết…ngày nắng bụi mù.
Đã có biết bao người lên dạy và không thể trụ nỗi những khó khăn thử thách đã phải bỏ về.
Cô Duyên nói, dù nghe đồng nghiệp kể cũng sợ nhưng cô không nao núng bởi tuổi trẻ cũng muốn được khám phá cùng với khát khao được làm cô giáo, được đem ánh sáng tri thức tới những trẻ em vùng lạc hậu, nghèo đói làm cô thêm vững bước.
Cô Duyên cũng cho biết, may mà gia đình lại rất ủng hộ với quyết định của cô.
Cả bố và mẹ cô từng là bộ đội. Bố là thương binh, mẹ bị ảnh hưởng chất độc da cam.
Thế nên việc con gái xung phong lên nơi khỉ ho cò gáy cũng làm ông bà lo nhưng tôn trọng quyết định của con, cha mẹ cô không ngăn cản.
Ngày nhận quyết định đến Trường Tiểu học Mường Lống 2, huyện Kỳ Sơn cô Duyên nói mình hăm hở vô cùng.
Bố cô đưa đi bằng chiếc xe máy cũ. Đường vào trường theo cô Duyên là: “Không thể tưởng tượng nổi”. Đường trơn nhầy nhụa, hai bố con đoạn đi đoạn đẩy xe và té nhào xuống đường biết bao nhiêu lần.
Xót con, bố cô Duyên khuyên con về xuôi tiếp tục xin đi dạy hợp đồng lại. Nhưng cô đã thuyết phục bố và quyết tâm đi đến cùng.
Cô Duyên cho biết, mặc dù trước đó trong đầu đã hình dung ra cảnh trường lớp, học sinh nơi thâm sơn cùng cốc nhưng khi tận mắt chứng kiến vẫn bị “sốc toàn tập”.
Lớp học là những bức vách thưng, trẻ em quanh vùng phần lớn chỉ mặc áo không có quần, tay chân mặt mũi đen nhẻm đất cát. Mũi đứa nào đứa nấy thò lò, rồi sụt sịt hít vào hì ra, có đứa lấy tay quẹt lem nhem cả mặt.
Đi học chúng mặc được cái quần nhưng lủng đít, vá víu chằng chịt. Trời lạnh nên nhiều ngày không tắm, đứa nào cũng bốc mùi hôi khó chịu.
Học sinh thường vắng học nhiều vì cha mẹ đi nương cả tuần mới về nên dù nhỏ cũng tự lo lấy thân.
Có điểm trường, nhà ở của giáo viên không có. Cô Duyên ở nhờ nhà một học trò lớp 3 cũng là anh lớn của 3 đứa em nheo nhóc.
Ba mẹ cậu bé đi làm nương cách nhà hàng mấy ngày đường nên thường ở lại vài tuần mới về.
Cô đã trở thành bảo mẫu cho 4 đứa trẻ và một chú lợn vài chục kí lô. Sáng đi dạy, chiều về với biết bao công việc.
Từ việc lên suối bế nước, vào rừng kéo củi, tắm giặt cho 4 anh em, lấy rau bằm cho lợn…đều một tay cô làm tuốt.
Ngoài ra còn dạy, kèm thêm cho những em học yếu mà phải năn nỉ chúng mới chịu học.
Hai mẹ con và chiếc xe rớt xuống dòng suối
Vài năm sau, cô Duyên xây dựng gia đình với một đồng nghiệp. Cô lại chuyển tới một trường xa thị trấn hơn nhưng không còn ở nhờ nhà dân nữa. Chuyện di chuyển, đi lại ở vùng này vô cùng nguy hiểm, đã không ít lần hút chết.
Đó là lần trời mưa lũ nhưng cô Duyên (đang mang thai 5 tháng) vẫn buộc phải đi vì sợ ngày mai không kịp dạy.
Cây cầu bắc qua suối đã bị nước cuốn nên cô đi men bên đường và bất ngờ cả người cùng xe lọt xuống dòng suối. Rừng núi vắng tanh không bóng người nên chẳng biết gọi ai cứu giúp.
Cố gắng lắm cô lên được bờ và đi bộ khoảng 2 km mới gặp được mấy người dân đang làm rẫy nhờ họ vớt dùm xe. Khi chiếc xe được đưa lên, cô biếu họ toàn bộ đồ ăn mang theo và tuần ấy cô đành nhịn ăn sáng.
Hãi hùng vì vắt bám vào người
Trời mưa vắt rừng nhiều vô kể. Thế nên đi ra ngoài phải luôn đi ủng và mặc áo mưa thật cẩn thận.
Cô Duyên cho biết dù đã trang bị kỹ càng nhưng có lần đi về mấy con vắt to chui vào bụng cắt đến no tròn.
Nhắm mắt, nín thở để kéo từng con vắt ra làm ám ảnh nhiều đêm liền vẫn không ngủ được, cứ thảng thốt, thất thần vì sợ. Chỉ nghĩ đến thôi là thấy rùng mình sợ hãi. Những vết cắn bầm tím trên da hàng tuần không phai.
Tình yêu với học trò là động lực giúp cô trụ lại với nghề
Trong câu chuyện của mình, cô Duyên liên tục nói đến ước mơ từ nhỏ là được trở thành cô giáo.
Có lẽ vì điều này đã giúp cô nhiều nghị lực để vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.
Không chỉ trụ lại với nghề mà cô còn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một nhà giáo.
Nhiều năm liền đạt giáo viên dạy giỏi cấp huyện, cấp tỉnh và đạt chiến sĩ thi đua cơ sở.
Ngày 16/11, cô Duyên đã vinh dự có mặt tại Hà Nội để nhận bằng khen của Bộ trưởng về thành tích xuất sắc trong công tác giáo dục học sinh dân tộc thiểu số vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Nói về giáo viên của mình, thầy Nguyễn Quốc Trí Hiệu trưởng Trường Mường Típ 1 chỉ dùng 2 từ ngắn gọn là: “Xuất sắc”.
Được nhà nước vinh danh, nhà trường công nhận, được phụ huynh và học sinh yêu mến, tin tưởng. Đây chính là phần thưởng vô cùng xứng đáng dành cho cô- một nhà giáo hết lòng vì sự nghiệp giáo dục.
Phan Tuyết
Theo giaoduc.net
Tuổi 20 địu chữ, gùi nhạc lên non
Cô Lương Thị Hoà và thầy Vi Mộng Hoàng đã gắn tuổi 20 với rừng sâu núi thẳm dạy chữ và lời ca tiếng hát cho học sinh dân tộc thiểu số. Họ tâm niệm "các em không được lựa chọn nơi mình sinh ra, nhưng được chọn thực hiện ước mơ của mình".
Thầy giáo Vi Mộng Hoàng. Ảnh: NVCC
Ngược về nơi gian khó
Cô Lương Thị Hòa (SN 1986) lớn lên ở thành phố. Năm 2007 nhận quyết định tuyển dụng lên dạy Trường THCS Yên Hòa (huyện Đà Bắc, Hòa Bình), cô đã phải hình dung vùng đất khó khăn cách trở không đường nhựa, không điện lưới... Cô được cán bộ Phòng Giáo dục chỉ dẫn: "Cháu đi xe khách đến ngã Ênh rồi đi tiếp 20km lên trường, nếu không muốn đi bộ thì đợi đi nhờ xe chở ngô. À không, cháu ở thành phố...".
Cuối cùng, cô Hòa chọn theo hướng "à không" là xuống thuyền lênh đênh gần nửa ngày sông nước và "chỉ phải đi bộ" 8km đường rừng. Cô Hòa kể: "Rời thuyền nhìn bốn phía rừng núi, tôi quay lại nhìn bác chủ thuyền. Như hiểu ý, bác chủ thuyền bảo cứ đi tầm 500m có nhà dân ở thì hỏi đường, nếu không hỏi được ai thì cứ đi thẳng đến nơi đông đúc dân là đến trường Yên Hòa". Suốt chặng đường hơn hai cây số cuốc bộ trước khi đi nhờ được xe máy, chị đã chỉ chực khóc "muốn gào lên gọi mẹ".
Cô giáo Lương Thị Hòa. Ảnh: Xuân Tùng
Thầy Vi Mộng Hoàng (SN 1991) sinh ra trên mảnh đất nghèo huyện Hòa An Cao Bằng. Tốt nghiệp loại giỏi khoa Sư phạm Âm nhạc - CĐ Văn hóa Nghệ Thuật Việt Bắc Thái Nguyên, thầy Hoàng chọn nơi khó khăn hơn để thực hiện ước mơ làm giáo viên. Điểm trường anh dạy cách nhà hơn 50km, cách trung tâm huyện Hà Quảng hơn 20km thuộc vùng Lục Khu giáp biên giới Trung Quốc. "Đường núi rất khó đi, có đoạn phải dắt xe đi bộ. Có đoạn biển báo Vành đai biên giới với nhiều đường rẽ, gặp được một người dân hỏi đường thì tiếng Kinh không biết nói, tiếng dân tộc cũng không hiểu do ngôn ngữ hai vùng khác nhau", thầy Hoàng kể.
Ngôi trường đầu tiên của cô Hòa thầy Hoàng đều khác xa những gì có thể hình dung. Trường không cổng, chỉ có dãy nhà cấp 4 lớp ngói cũ kỹ, dãy nhà đan nứa. Để có nước sinh hoạt phải hứng nước mưa, phải xách từng xô nước dưới mó về lọc phèn để nấu ăn... Nếu cô Hòa "buồn vui lẫn lộn" thì thầy Hoàng đã chợt nghĩ "có nên ở lại đây để làm" và phó mặc "mai lên lớp buổi đầu tiên xem sao rồi sẽ quyết định".
Thầy giáo Vi Mộng Hoàng chia sẻ: "Hằng ngày đến trường đến lớp, trò chuyện với các em rất vui. Các em không được lựa chọn nơi mình sinh ra, nhưng các em được chọn thực hiện ước mơ của mình. Thầy cô giáo là người giúp các em thực hiện ước mơ đó". Ảnh: NVCC
Động lực giúp hai giáo viên trẻ vượt qua khó khăn chính là tình cảm của học sinh dân tộc thiểu số. Thầy Hoàng chia sẻ: "Những nhành hoa dại buổi học đầu tiên, cành hoa cải ngày 20/11, bài văn tả thầy đã làm tôi cảm động. Cảm ơn các em đã níu tôi ở lại".
Cô Hòa bộc bạch: "Những món quà đơn sơ đậm ân tình của trẻ vùng cao theo tôi cho đến bây giờ". Cô kể về quả na của cô học trò Uyên trường Yên Hòa, đã vượt đường xa mang đến tặng cô giáo trong ngày chia tay. "Con bé òa khóc không không muốn cô giáo đi, tôi cũng ngẹn lòng.
Có người bảo... hâm
Đến nay, cô Hòa và thầy Hoàng đã luân chuyển đến nhiều trường ở các vùng đặc biệt khó khăn. Dù có cơ hội đến công tác nơi thuận lợi hơn, nhưng cả hai đều từ chối. Cô Hòa chia sẻ: "Có nhiều người bảo tôi hâm, gắn đời mình với xứ khỉ ho cò gáy...Nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ thế vì bao đồng nghiệp cũng xa gia đình lên trên núi sống; và hơn hết tình yêu của trẻ luôn là món quà vô giá". Cô kể về quả na được cô bé Uyên vượt đường xa đến tặng ngày cô trò chia tay; về nụ cười tít mắt của cậu bé "bị bùn ngập mất dép" được cô giáo mua cho đôi dép tổ ong mới thay thế.
Cô Lương Thị Hòa hướng dẫn các em học sinh của trường biểu diễn trong chương trình tuyên dương Chia sẻ cùng thầy cô tại Hà Nội. Ảnh: Xuân Tùng
Cô Hòa hiện giảng dạy ở Trường Tiểu học và THCS Cao Sơn thuộc vùng khó, có nhiều chi điểm lẻ nhất huyện Đà Bắc. Học sinh chủ yếu là người dân tộc Mường, Dao, Tày. Cô được phân công làm công tác Tổng phụ trách, cứ hai ba ngày lại đến chi lẻ dạy một lần. Không chỉ dạy chữ, lời ca điệu múa, cô Hòa còn tích cực liên hệ vận động các tổ chức thiện nguyện góp phần cải thiện điều kiện học tập, sinh hoạt cho học trò. Riêng năm học 2018-2019, cô đã vận động xây được nhà vệ sinh cho học sinh chi Bai; 50 chiếc xe đạp cho chương trình " cùng em đến trường".
Thầy Hoàng đến nay vẫn giữ thói quen sau giờ học lại theo chân học trò Trường Tiểu học Nặm Nhũng (huyện Hà Quảng) về nhà vừa rèn luyện sức khỏe vừa tìm hiểu hoàn cảnh của học sinh; tìm hiểu văn hóa, học tiếng dân tộc...
Thầy Hoàng cho biết: "Là giáo viên âm nhạc và tổng phụ trách Đội, tôi đã mạnh dạn đưa các bài dân ca địa phương vào trong giảng dạy, cùng với những bài múa dân gian để giáo dục các em yêu thích dân ca địa phương". Thầy Hoàng đã sáng tác nhiều bài hát lấy cảm hứng từ phong cảnh rừng núi, tình cảm của người dân vùng cao, từ học sinh.
Trong đó, có "Bài ca Trường Tiểu học Nặm Nhũng" được chọn là bài ca truyền thống của trường; bài hát "Tình ca bản Mông" được giải nhất cuộc thi Sáng tác ca khúc về đề tài dân tộc thiểu số và miền núi của Bộ văn hóa thể thao và du lịch tổ chức.
"Hằng ngày đến trường đến lớp, trò chuyện với các em rất vui. Các em không được lựa chọn nơi mình sinh ra, nhưng các em được chọn thực hiện ước mơ của mình. Thầy cô giáo là người giúp các em thực hiện ước mơ đó", Thầy giáo Vi Mộng Hoàng nói.
Cô Lương Thị Hoà và thầy Vi Mộng Hoàng là hai trong số 63 giáo viên vùng dân tộc thiểu số được tuyên dương trong Chương trình Chia sẻ cùng thầy cô năm 2019 do T.Ư Hội LHTN Việt Nam, Bộ GD&ĐT và Tập đoàn Thiên Long phối hợp tổ chức.
Thầy giáo Vi Mộng Hoàng (thứ hai từ phải sang) và cô giáo Lương Thị Hòa (thứ 6 từ phải sang) vinh dự nhận kỷ niệm chương, bằng khen của T.Ư Hội LHTN Việt Nam trong chương trình Chia sẻ cùng thầy cô 2019. Ảnh: Xuân Tùng.
Theo Tiền phong
Tâm sự của cô giáo "bỗng dưng nổi tiếng" ở điểm trường Tăk Pổ lưng chừng núi Vậy là đã tròn 5 năm cô giáo Trà Thị Thu nhận mang con chữ đến học trò ở vùng cao. Trong 5 năm đó, dù trải qua biết bao nhiêu vất vả, khó khăn không thể tả hết nhưng cô giáo trẻ ấy vẫn từng ngày chăm sóc cho các em nhỏ đồng bào Ca-dong, vẫn gieo con chữ đến cho các...