Có mặt trong tốp 1.000 trường hàng đầu thế giới, 2 đại học quốc gia được duy trì
Giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật Giáo dục (sửa đổi), Chủ nhiệm UB Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng Phan Thanh Bình nhận định, sau hơn 20 năm xây dựng và phát triển, mô hình hai ĐHQG đã ổn định và mang lại kết quả nhất định, có mặt trong danh sách 1.000 trường đại học hàng đầu thế giới.
Đại học được tự lập trường trực thuộc
Trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, Chủ nhiệm UB Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội Phan Thanh Bình cho biết, sau khi tiếp thu ý kiến của nhiều đại biểu, dự luật đã quy định rõ hệ thống GDĐH Việt Nam bao gồm: trường đại học, học viện (gọi chung là trường đại học); đại học (là tổ hợp các trường đại học; trường trực thuộc) và các cơ sở GDĐH khác phù hợp với quy định của pháp luật.
“Hạt nhân cơ bản của hệ thống là trường đại học với cơ cấu tổ chức chuẩn mực theo thông lệ quốc tế” – ông Bình nêu rõ. Còn học viện được điều chỉnh chung với trường đại học do đây chỉ là tên gọi của một số cơ sở GDĐH đã hình thành và đang tồn tại trong thực tiễn mà không có sự khác biệt so với trường đại học cả về cơ cấu tổ chức, chức năng, sứ mệnh.
Khái niệm “đại học”, sau khi được chỉnh lý, được hiểu là nhóm các trường đại học, viện nghiên cứu thành viên; trường và các đơn vị trực thuộc khác, cùng hoạt động trong một khuôn khổ pháp lý nhằm gia tăng giá trị, khả năng cạnh tranh và đóng góp của toàn hệ thống đối với xã hội.
Chủ nhiệm UB Văn hoá, Xã hội, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng Phan Thanh Bình cũng từng làm Giám đốc ĐH Quốc gia TPHCM.
Dự luật cũng quy định nguyên tắc để các trường đại học và đại học tự chủ quyết định mô hình và cấu trúc của cơ sở GDĐH. Theo đó, các trường đại học có thể tự phát triển và thành lập các trường trực thuộc bên trong (theo điều kiện, tiêu chuẩn do Chính phủ quy định) để trở thành đại học; hoặc trên cơ sở tự nguyện hay được Nhà nước quy định, các trường đại học được sáp nhập với nhau để trở thành một đại học. Các đại học quyết định cấu trúc và cơ chế quản lý của mình theo quy định pháp luật.
Trước những băn khoăn về mô hình tổ chức của đại học quốc gia (ĐHQG), đại học vùng, ông Phan Thanh Bình giải thích, các mô hình này không mới mà đang là xu hướng phát triển nhằm hình thành các hệ thống đại học liên ngành, tạo sức mạnh tổng hợp để giải quyết những nhiệm vụ, yêu cầu mới về phát triển khoa học và công nghệ và cạnh tranh thế giới.
Ở Việt Nam, sau hơn 20 năm xây dựng và phát triển, mô hình hai ĐHQG đã ổn định và mang lại kết quả nhất định cả về chuyên môn, khoa học lẫn quản lý, đi đầu trong hệ thống giáo dục đào tạo với việc có mặt trong danh sách 1000 trường đại học hàng đầu thế giới.
Những vấn đề tồn tại của các đại học vùng hiện nay, theo ông Bình, có nguyên nhân chủ yếu do chính sách và cơ chế quản lý chưa phù hợp. Do đó, dự Luật quy định hành lang pháp lý thuận lợi cho các cơ sở này tự chủ, tự quyết định cơ chế quản lý, phát huy thế mạnh của tổ hợp các trường đại học mạnh.
Video đang HOT
Trách nhiệm giải trình của trường đại học tự chủ
Đây là yêu cầu đặt ra đối với các cơ sở GDĐH khi thực hiện tự chủ đại học. Theo yêu cầu của nhiều đại biểu, dự luật đã chỉnh lý theo hướng giải thích rõ khái niệm tự chủ; quy định điều kiện, yêu cầu để được tự chủ.
Cùng với đó, các nội dung tự chủ về chuyên môn, tổ chức, nhân sự, tài chính và tài sản cũng được cụ thể hoá trong dự luật. Đặc biệt, khái niệm trách nhiệm giải trình và các nội dung về chất lượng, học phí, kết quả kiểm toán mà nhà trường phải thực hiện công khai, minh bạch với người học, xã hội, cơ quan quản lý và các bên có lợi ích liên quan đã được làm rõ.
Liên quan đến tài chính và tài sản, dự luật bổ sung theo hướng xác định trách nhiệm của Nhà nước trong đầu tư phát triển GDĐH, quy định phương thức phân bổ ngân sách thông qua các hình thức: chi đầu tư, chi nghiên cứu phát triển, đặt hàng nghiên cứu, đào tạo, học bổng, tín dụng sinh viên theo nguyên tắc cạnh tranh, bình đẳng, hiệu quả.
Về học phí, dự luật quy định đây là khoản thu mà người học phải nộp cho cơ sở GDĐH để bù đắp một phần hoặc toàn bộ chi phí đào tạo. “Mức thu học phí được xác định trên cơ sở định mức kinh tế – kỹ thuật theo lộ trình tính đủ chi phí đào tạo theo quy định của pháp luật” – ông Bình nhấn mạnh, đồng thời cho biết, cơ sở GDĐH phải công khai chi phí đào tạo, mức thu học phí và các khoản thu dịch vụ khác cho từng năm học và cho cả khoá học cùng với thông báo tuyển sinh.
Về quản lý, sử dụng tài sản, dự luật quy định tài sản do Nhà nước đầu tư, giao cho cơ sở GDĐH được quản lý, sử dụng theo quy định của pháp luật về quản lý tài chính, tài sản công. Nhà trường được phép sử dụng một phần tài sản được giao vào kinh doanh, cho thuê, liên kết nhằm mục đích phát triển GDĐH theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển.
Đối với việc phát triển hệ thống đại học tư thục, các khái niệm về trường tư thục, trường tư thục không vì lợi nhuận đã được làm rõ cùng quy định Nhà nước có chính sách ưu tiên, khuyến khích phát triển các cơ sở GDĐH tư thục hoạt động không vì lợi nhuận.
“Dự luật hướng đến việc quy định rõ mô hình và cơ chế tài chính của cơ sở GDĐH tư thục vận dụng theo mô hình doanh nghiệp nhưng vẫn đảm bảo tính đặc thù của GDĐH và không thương mại hoá, theo đó quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn của nhà đầu tư thành lập cơ sở GDĐH tư thục và mối liên quan với Hội đồng trường tư thục; yêu cầu các cơ sở GDĐH tư thục phải trích tối thiểu 25% chênh lệch thu chi để tái đầu tư cho hoạt động giáo dục” – ông Bình cho biết.
P.Thảo
Theo Dân trí
Đại biểu tranh cãi gay gắt về mô hình giáo dục đại học
Một số trường đại học thành viên của Đại học Quốc gia và Đại học vùng đang muốn ly khai vì phải nuôi bộ máy trung gian quá cồng kềnh.
Sáng 7/9, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức hội nghị góp ý dự thảo Luật Giáo dục đại học sửa đổi.
Mâu thuẫn về mô hình cơ sở giáo dục đại học
Ông Phan Thanh Bình, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng, cho biết hiện còn ý kiến khác nhau giữa Bộ Giáo dục (cơ quan soạn dự thảo) và Ủy ban (cơ quan thẩm tra) về mô hình cơ sở giáo dục đại học.
Cơ quan thẩm tra đề nghị quy định thống nhất mô hình hệ thống cơ sở giáo dục đại học gồm trường đại học và đại học (hệ thống các trường đại học). Hạt nhân cơ bản của hệ thống giáo dục đại học là trường đại học. Khi các trường sáp nhập, kết hợp với nhau hoặc một trường lớn mạnh sẽ hình thành đại học.
Ông Phan Thanh Bình. Ảnh: Văn phòng Quốc hội.
Theo ông Bình, quy định theo hướng này rõ ràng, mạch lạc, tạo hành lang pháp lý để kết hợp tiềm năng, lợi thế các trường đại học thành sức mạnh hệ thống, tăng cạnh tranh với các hệ thống đại học quốc tế. "Thực tế khi xây dựng hai Đại học quốc gia đã chứng minh tính đúng đắn của mô hình này khi có cơ chế, nguồn lực phù hợp", ông Bình nói.
Cơ quan soạn thảo lại đề nghị quy định hệ thống cơ sở giáo dục đại học gồm đại học, trường đại học, học viện và các cơ sở giáo dục đào tạo có tên khác. Bộ Giáo dục đánh giá quy định này tường minh, công bằng khi coi tất cả cơ sở giáo dục đại học đều có cơ hội như nhau về lựa chọn mô hình phát triển là đại học.
Tuy nhiên, ông Bình đánh giá quy định như vậy chưa giải quyết được bản chất vấn đề về mô hình trường đại học bên trong đại học của các đại học hiện nay cả về nội dung và tổ chức. Đồng thời nó có thể làm phức tạp thêm hệ thống khi quy định tất cả cơ sở giáo dục đại học là đại học.
Một số đại học thành viên muốn ly khai
Đại biểu Đinh Văn Nhã cho rằng nếu đọc báo cáo, các đại biểu chắc chắn sẽ ủng hộ đề xuất của cơ quan thẩm tra vì nhìn thấy ưu điểm hơn, nhưng chưa làm rõ bất cập của mô hình Bộ Giáo dục đề xuất. Ông dẫn chứng, hai Đại học quốc gia trước đây được hình thành bằng giải pháp hành chính, đang còn nhiều bất cập. Phương án của Bộ đề xuất ưu thế hơn rất nhiều, bởi theo quy luật tự nhiên.
Đồng tình với ý kiến của ông Nhã, Phó thủ tướng Vũ Đức Đam nói, về ngôn ngữ, tại sao chỉ có Đại học Quốc gia và Đại học vùng được gọi là đại học? Còn những trường rất uy tín, quy mô lớn như Bách khoa, Kinh tế quốc dân... không được gọi là đại học? Vì vậy, nếu theo phương án của cơ quan thẩm tra thì không tạo động lực để các trường vươn lên, khó giải thích khi hội nhập quốc tế.
Phó thủ tướng Vũ Đức Đam. Ảnh: Hoàng Phong.
Hơn nữa, năm 1994-1995, khi thành lập ba đại học vùng và hai đại học quốc gia là sáp nhập cơ học, sau mấy chục năm vận hành tới giờ không phải đều thuận lợi. "Phương án của cơ quan thẩm tra không giải quyết được bản chất mô hình các đại học hiện nay. Phương án của ban soạn thảo phần nào giải quyết được", ông Đam nói.
Tranh luận lại, ông Bình nói việc sáp nhập các trường thành tổ hợp đại học đang là xu hướng thế giới để cạnh tranh quốc tế. Nhiều nước như Nhật, Pháp, Philippines... đã làm như vậy. Việc thành lập hai đại học quốc gia không phải là không có kết quả.
Nhưng nguyên Thứ trưởng Giáo dục Trần Xuân Nhĩ dẫn chứng, hiện một số trường đại học thành viên của Đại học Quốc gia và Đại học vùng muốn ly khai vì phải nuôi bộ máy trung gian quá cồng kềnh.
Đại biểu Lưu Bình Nhưỡng cũng góp ý, các trường cần có cơ hội phát triển như nhau. Mô hình giáo dục đại học phải đảm bảo 4 yếu tố: có tư cách pháp nhân, chịu trách nhiệm; bình đẳng về đào tạo và sáng tạo; không phân biệt quy mô, công lập hay tư thục; có cơ hội tiếp cận nguồn lực, cải tiến phục vụ cạnh tranh trong đào tạo.
"Nói đến Đại học Quốc gia ai cũng nghĩ đến sự hoành tráng. Nhưng không phải trường nào, khoa nào cũng tốt, hơn nữa lại sinh ra bộ máy trung gian quản lý", ông Nhưỡng nói.
Ông đề nghị phải phân biệt rõ liên kết cơ học và liên kết mềm khi hình thành đại học. Liên kết mềm do nhu cầu của các trường khi đã hội đủ yếu tố nhân lực, tài chính, học thuật... chứ không phải bằng quyết định của nhà nước. Cần tăng cường tự chủ tạo điều kiện để các trường liên kết chứ không nên bắt buộc.
Viết Tuân
Theo Vnexpress
Hệ thống đại học cồng kềnh, bất cập Nhiều ý kiến cho rằng Đại học Quốc gia và đại học vùng là mô hình cồng kềnh, cản trở sự phát triển của giáo dục đại học Ngày 7-9, Hội nghị Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) hoạt động chuyên trách đã thảo luận về dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục ĐH (gọi tắt là...