Có đầy đủ cơ sở pháp lý để học viên học Bác sĩ nội trú được cấp đủ 3 bằng?
Theo quan điểm của luật sư Trương Thanh Hòa, Bộ Y tế và Bộ GD-ĐT đã có những quy định cụ thể về việc cấp bằng Chuyên khoa 1 và bằng Thạc sĩ cho các học viên học Bác sĩ nội trú tại ĐH Y Hà Nội giai đoạn từ năm 2007-2017.
Liên quan đến việc hơn 100 bác sĩ từng học chương trình đào tạo Bác sĩ nội trú tại ĐH Y Hà Nội “kêu cứu” vì chỉ được nhận duy nhất bằng Bác sĩ nội trú thay vì nhận đủ 3 bằng gồm bằng Chuyên khoa 1, bằng Thạc sĩ, bằng Bác sĩ nội trú sau khi hoàn thành chương trình đào tạo Bác sĩ nội trú của ĐH Y Hà Nội theo luật định, phóng viên VOV.VN đã trao đổi với luật sư Trương Thanh Hòa, Văn phòng Luật sư Kết nối, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội để làm rõ một số nội dung liên quan.
Luật sư Trương Thanh Hòa, Văn phòng Luật sư Kết nối, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội.
Dựa theo đơn thư kêu cứu của các học viên và nội dung ĐH Y Hà Nội đã trả lời trên báo chí, Luật sư Trương Thanh Hòa cho rằng, việc các học viên từng học Bác sĩ nội trú tại ĐH Y Hà Nội kêu cứu vì không được cấp đủ bằng là có cơ sở pháp lý. Theo đó, Khoản 2 Điều 16 tại Quyết định 19/2006/QĐ-BYT của Bộ Y tế về việc ban hành quy chế đào tạo bác sĩ nội trú nêu rõ: “Công nhận tốt nghiệp: 2. Học viên tốt nghiệp được cấp bằng Bác sĩ nội trú, bằng Chuyên khoa cấp I và được đề nghị với Bộ Giáo dục và Đào tạo cấp bằng Thạc sĩ”.
Trong thông tư liên tịch số 30/2003/TTLT/BGD&ĐT-BYT của Bộ GD-ĐT và Bộ Y tế tại Điều 3 Mục III nêu rõ: “Người trúng tuyển hệ đào tạo Bác sĩ nội trú bệnh viện sẽ được công nhận là học viên cao học. Bác sĩ được đào tạo theo chương trình nội trú bệnh viện sẽ học bổ sung các môn còn thiếu trong chương trình đào tạo Thạc sĩ chuyên ngành tương ứng theo quy chế đào tạo sau đại học hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Khi tốt nghiệp bác sĩ nội trú bệnh viện, học viên sẽ được cấp bằng Thạc sĩ y học”.
Trước đó, khi trao đổi với VOV.VN, đại diện ĐH Y Hà Nội cho biết, sở dĩ trường không cấp bằng Chuyên khoa 1 cho các bác sĩ nội trú sau khi hoàn thành chương trình đào tạo bác sĩ nội trú do năm 2003, Bộ Y tế đã có văn bản quy định về việc cấp bằng nhưng không nói đến việc sẽ cấp bằng Chuyên khoa 1 cho học viên đã hoàn thành chương trình đào tạo Bác sĩ nội trú. Đến năm 2006, Bộ Y tế tiếp tục ban hành quyết định về quy chế đào tạo Bác sĩ nội trú, trong đó, cho phép cấp thêm bằng Chuyên khoa 1. Song ĐH Y Hà Nội cho rằng, các văn bản sau này của Bộ Y tế không có câu nào phủ định quy định năm 2003, nên trường vẫn áp dụng theo quy định này.
Về vấn đề này, theo luật sư Trương Thanh Hòa, quan điểm này chưa chính xác. “Thứ nhất, theo quy định tại khoản 3 điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 có nêu: “Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau”. Thứ 2 ngay tại Điều 2 của QĐ 19/2006/QĐ-BYT đã nêu rõ : “Điều 2 Quyết định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng công báo. Bãi bỏ Quyết định số 1635/2001/QĐ-BYT ngày 25/5/2001 của Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành Quy chế đào tạo bác sĩ nội trú bệnh viện. Những quy định trước đây trái với Quyết định này đều bị bãi bỏ.
Như vậy, Bộ Y tế đã có văn bản quy định và hướng dẫn rất cụ thể về trường hợp công nhận tốt nghiệp đối với học viên tốt nghiệp bác sĩ nội trú thì được cấp loại bằng nào, đó là 2 tấm bằng bác sĩ nội trú và bằng chuyên khoa cấp 1″, luật sư Hòa nói.
Về quan điểm của ĐH Y Hà Nội cho rằng, học viên học một chương trình nên chỉ được cấp 1 bằng duy nhất theo đúng Luật Giáo dục. Luật sư Hòa nhận định, trong vấn đề cấp bằng, nhà trường tuân thủ Luật Giáo dục là điều đương nhiên, tuy nhiên, trong Luật Giáo dục khi nói về Văn bằng chứng chỉ trong hệ thống giáo dục quốc dân, không đề cập học 1 chương trình chỉ được cấp 1 bằng.
Trong bảng điểm của học viên học Bác sĩ nội trú có ghi rõ chương trình đã bao gồm cả chương trình đào tạo cao học.
Luật sư Hoà nêu cụ thể: Điều 12 Nghị định 75/2006/NĐ-CP hướng dẫn điều 8 Luật giáo dục 2005: “Văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân được cấp cho người học sau khi tốt nghiệp một cấp học hoặc một trình độ đào tạo, chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân được cấp cho người học sau khi được hoàn thành một khóa hoặc một chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao học vấn nghề nghiệp”. (Điều 12 NĐ 75/2006/NĐ-CP). Tại Khoản 6 Điều 43 Luật Giáo dục 2005 cũng nêu: “Thủ tướng Chính phủ quy định bằng tốt nghiệp tương đương trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ của một số ngành chuyên môn đặc biệt” và khi có Luật sửa đổi bổ sung Luật Giáo dục 2005 được ban hành năm 2009 thì hướng dẫn Khoản 6 Điều 43 như sau: “6. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quy định văn bằng công nhận trình độ kỹ năng thực hành, ứng dụng cho những người được đào tạo chuyên sâu sau khi tốt nghiệp đại học ở một số ngành chuyên môn đặc biệt”.
Video đang HOT
Luật sư Hòa cho rằng, với những quy định và hướng dẫn trên của Luật Giáo dục thì bằng bác sĩ nội trú, bằng chuyên khoa I là một dạng văn bằng đặc biệt của ngành chuyên môn đặc thù sau đại học trong lĩnh vực y tế.
Ngoài ra, trong bảng điểm của bác sĩ nội trú các khóa từ năm 2007-2017 cũng nêu rõ “Chương trình trên đã bao gồm chương trình đào tạo cao học”.
Luật sư này cũng nói thêm rằng, khi Thông tư của 2 Bộ GD-ĐT và Bộ Y tế đã ghi rõ về việc công nhận người trúng tuyển hệ đào tạo Bác sĩ nội trú thì được công nhận là học viên cao học như vậy các bác sĩ nội trú cũng chính là các đối tượng có chỉ tiêu đầu vào Cao học, Đại học Y Hà Nội tuyển sinh bao nhiêu chỉ tiêu cho hệ đào tạo Bác sĩ nội trú thì cũng sẽ phải xin Bộ GD-ĐT dành từng ấy chỉ tiêu cao học cho nhóm này.
Từ những căn cứ trên, cùng các văn bản pháp lý có hiệu lực từ năm 2007-2017, luật sư Trương Thanh Hòa cho rằng, Bộ Y tế và Bộ GD-ĐT đã có những hướng dẫn cụ thể về việc công nhận và cấp bằng cho học viên hoàn thành chương trình đào tạo bác sĩ nội trú.
“Vấn đề là từ phía trường Đại học Y Hà Nội đã có những cách hiểu và vận dụng sai quy định của pháp luật dẫn đến sự thiệt thòi cho các bác sĩ nội trú, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ”, Luật sư Trương Thanh Hòa nói./.
Giáo viên bị xuống hạng xếp lương mới thế nào, tìm đỏ mắt không thấy quy định
Nếu tụt hạng thì lương mới sẽ xếp ra sao? Có văn bản nào quy định chưa? Đó là những câu hỏi nhận được sự quan tâm của giáo viên cả nước.
Sau bài viết: "Chưa có bằng thạc sĩ giáo viên bị tụt hạng, Bộ Giáo dục nói gì?" của tác giả Thùy Linh đăng tải trên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam nhận được rất nhiều sự quan tâm của giáo viên, nhất là nhiều giáo viên có nguy cơ tụt hạng trong đợt xếp lương mới này.
Nếu tụt hạng thì lương mới sẽ xếp ra sao? Có văn bản nào quy định chưa? Đó là những câu hỏi nhận được sự quan tâm của giáo viên cả nước.
Nội dung bài viết nêu một số ý kiến giáo viên cho rằng Bộ Giáo dục và Đào tạo cần xem xét lại các quy định về tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp của giáo viên trung học cơ sở hạng I tại Thông tư số 03/2021/TT-BGDĐT.
Theo đó, để đảm bảo tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ của giáo viên trung học cơ sở hạng I thì phải có bằng thạc sĩ trở lên.
Quy định này đang làm phát sinh một số vướng mắc như giáo viên trước đây được thăng hạng I vào thời điểm chưa có Thông tư 03 mà không có bằng thạc sĩ thì xuống hạng II.
Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã cho rằng, trường hợp giáo viên trung học cơ sở hạng I (mã số V.07.04.10) chưa đạt các tiêu chuẩn của hạng I (mã số V.07.04.30) thì bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở hạng II (mã số V.07.04.31) và giáo viên vẫn được bảo đảm về chế độ, chính sách hiện hưởng.
Sau khi đạt các tiêu chuẩn của hạng I (mã số V.07.04.30) thì bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở hạng I (mã số V.07.04.30) mà không phải thông qua kỳ thi hoặc xét thăng hạng.
Đây là trường hợp xuống hạng mà giữ nguyên hệ số lương thì cơ bản không thay đổi, nhưng trong các Thông tư mới vẫn có các trường hợp xuống hạng mà hệ số lương bị giảm, thì Bộ Giáo dục và Đào tạo dự định sẽ căn cứ quy định nào để xếp lương giáo viên họ?
Việc tăng hạng, tăng hệ số lương đã được hướng dẫn thực hiện tại Thông tư 02/2007/BNV, tuy nhiên trong tất cả các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, tôi chưa tìm thấy có văn bản nào quy định, hướng dẫn việc xuống hạng, tụt hạng giảm hệ số lương.
(Ảnh minh hoạ: Nhandan.vn)
Các trường hợp phải xuống hạng giữ nguyên hệ số lương
Chùm Thông tư Bộ Giáo dục và Đào tạo mới ban hành nêu trên quy định một số trường hợp phải "xuống hạng" giữ nguyên hệ số lương như sau:
Đối với giáo viên tiểu học: Giáo viên tiểu học hạng II mã số V.07.03.07 (có hệ số lương 2,34 - 4,98) chưa đạt chuẩn của hạng II mã số V.07.03.28 (có hệ số lương 4,0 đến 4,98) thì được bổ nhiệm vào hạng III mã số V.07.03.29 (có hệ số lương 2,34 - 4,98) đến khi đạt chuẩn của hạng II mã số V.07.03.28 thì bổ nhiệm vào hạng II mã số V.07.03.28 mà không phải thăng hạng;
Đối với giáo viên trung học cơ sở: Giáo viên trung học cơ sở hạng II mã số V.07.04.11 (có hệ số lương 2,34 đến 4,98) chưa đạt chuẩn của hạng II mã số V.07.04.31 (có hệ số lương 4,0 đến 6,38) thì được bổ nhiệm vào hạng III mã số V.07.04.32 (có hệ số lương 2,34 đến 4,98) cho đến khi đạt chuẩn hạng II mã số V.07.04.31 thì bổ nhiệm lên hạng II mã số V.07.04.31 mà không phải thăng hạng;
Giáo viên trung học cơ sở hạng I mã số V.07.04.10 (có hệ số lương 4,0- 6,38) chưa đạt chuẩn của hạng I mã số V.07.04.30 (có hệ số lương 4,4- 6,78) thì bổ nhiệm vào hạng II mã số V.07.04.31 (có hệ số lương 4,0 - 6,38) cho đến khi đạt chuẩn thì bổ nhiệm lên hạng I mã số V.07.04.30 mà không phải thăng hạng.
Như vậy, có 3 trường hợp sẽ giữ hạng thấp hơn hạng hiện hưởng, xuống hạng nhưng về hệ số lương, lương là không thay đổi.
Trường hợp xuống hạng giảm hệ số lương
Đối với giáo viên mầm non: Trường hợp giáo viên mầm non hạng II (mã số V.07.02.04) có hệ số lương từ 2,34 - 4,98 do chưa đạt các tiêu chuẩn của hạng II (mã số V.07.02.25) có hệ số lương 2,34 - 4,98 nên bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp giáo viên mầm non hạng III (mã số V.07.02.26) có hệ số lương 2,1 đến 4,89 theo quy định tại khoản 3 Điều 7 Thông tư này sau khi đạt các tiêu chuẩn của hạng II (mã số V.07.02.25) thì được bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp giáo viên mầm non hạng II (mã số V.07.02.25) mà không phải thông qua kỳ thi hoặc xét thăng hạng.
Các trường hợp có thể giảm hạng, giảm hệ số lương
Đối với giáo viên trung học cơ sở đang giữ giáo viên trung học cơ sở hạng I hiện nay có hệ số lương 4,0 - 6,38 nếu không đáp ứng hạng I mới thì chuyển xuống hạng II có hệ số lương tương đương. Vậy nếu giáo viên trung học cơ sở đó không đáp ứng cả tiêu chuẩn hạng II thì sẽ giải quyết như thế nào?
Ví dụ giáo viên trung học cơ sở đang là giáo viên trung học cơ sở hạng I có hệ số lương từ 4,0 - 6,38 nhưng chưa có bằng thạc sĩ thì phải xuống hạng II, tuy nhiên khi xếp vào hạng II thì giáo viên trên không có chứng chỉ chức danh nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở hạng II hoặc thiếu 1 số tiêu chuẩn nào đó của giáo viên hạng II thì có phải xuống tiếp một bậc nữa, phải xếp vào hạng III có hệ số 2,34 - 4,98 không?
Đối với giáo viên trung học phổ thông đang giữ hạng I, II nếu không đáp ứng tiêu chuẩn của hạng I, II thì việc chuyển xếp lương sẽ ra sao?
Chưa có quy định nào về xuống hạng giảm hệ số lương
Việc chuyển ngạch thay đổi chức danh nghề nghiệp tại chùm các Thông tư trên đều quy định thực hiện việc xếp lương khi bổ nhiệm vào hạng chức danh nghề nghiệp thực hiện theo hướng dẫn tại khoản 1 Mục II Thông tư số 02/2007/TT-BNV ngày 25 tháng 5 năm 2007 của Bộ Nội vụ hướng dẫn xếp lương khi nâng ngạch, chuyển ngạch, chuyển loại công chức, viên chức và theo quy định hiện hành của pháp luật.
Nội dung cụ thể: " 1. Xếp lương khi nâng ngạch công chức, viên chức mục II quy định cụ thể như sau
a. Trường hợp chưa hưởng phụ cấp thâm niên vượt khung ở ngạch cũ thì căn cứ vào hệ số lương đang hưởng ở ngạch cũ để xếp vào hệ số lương bằng hoặc cao hơn gần nhất ở ngạch mới. [...]
Bên cạnh đó tại Nghị định 115/2020/NĐCP quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức cũng không có bất kỳ quy định nào nói về việc xuống hạng mà bị giảm hệ số lương.
Như vậy, có thể thấy tại các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, tôi không tìm thấy có bất kỳ quy định nào về việc xuống hạng bị giảm hệ số lương, sẽ xếp lương như thế nào như các Thông tư của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
Tài liệu tham khảo:
[1] Chùm Thông tư 01, 02, 03, 04/2021/TT-BGDĐT
[2] Thông tư 02/2007/TT-BNV
[3] https://giaoduc.net.vn/giao-duc-24h/chua-co-bang-thac-si-giao-vien-bi-tut-hang-bo-giao-duc-noi-gi-post221123.gd
(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.
Đưa nội dung về phòng cháy chữa cháy vào dạy chính khóa từ bậc mẫu giáo đến đại học? Bộ GD-ĐT vừa ban hành dự thảo thông tư về hướng dẫn trang bị kiến thức, kỹ năng phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn cứu hộ cho học sinh, sinh viên học tập tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Theo dự thảo thông tư, nếu được thông qua, việc dạy các kiến thức về phòng cháy,...