Có bao nhiêu “thạc sĩ giấy”?
Theo số liệu thống kê của Bộ Khoa học và Công nghệ (KH-CN), cả nước hiện có hơn 24.300 tiến sĩ (TS) và hơn 101.000 thạc sĩ (ThS). So với năm 2006, con số này tăng bình quân 11,6%/năm, trong đó số TS tăng 7%/năm, ThS tăng 14%/năm.
Với số lượng TS và ThS như vậy, nếu có chất lượng, đó là nguồn nhân lực đáng quý của đất nước nhưng thực tế lượng chất xám ít có màu xám của trí tuệ. Chưa có số liệu thống kê trong số TS, ThS này có bao nhiêu phần trăm làm công tác nghiên cứu khoa học, giảng dạy; cũng chưa có số liệu bao nhiêu quan chức có bằng TS nhưng chắc con số này cũng khá cao. Với các TS và ThS này, chuyện nghiên cứu khoa học là “xa xỉ”, tấm bằng chỉ để “giữ ghế”.
PGS-TS Phạm Bích San, Phó Tổng Thư ký Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), cho biết: “Số TS Việt Nam nhiều nhất Đông Nam Á nhưng không có một trường ĐH nào của Việt Nam được xếp trong số 500 trường ĐH hàng đầu thế giới. Số lượng các bài báo khoa học công bố quốc tế của một quốc gia gần 90 triệu dân trong 1 năm chỉ bằng số lượng của 1 trường ĐH của Thái Lan”.
Trên các diễn đàn khoa học, chất lượng TS và ThS của Việt Nam đã được mổ xẻ ở nhiều góc độ nhưng để thay đổi tận gốc là điều rất khó. Bộ GD-ĐT cũng thấy rõ điều đó nên vừa ban hành dự thảo quy chế tuyển sinh đào tạo ThS để lấy ý kiến đóng góp. Đây là bước đi tất yếu để nâng chất trình độ nghiên cứu khoa học.
Trong nhiều năm qua, quy mô đào tạo ThS ở nhiều trường quá lớn là nguyên nhân gây “lạm phát” trình độ ThS với nhiều ThS “giấy”. Ví dụ như năm 2011, ĐH Quốc gia Hà Nội đào tạo đến hơn 4.000 ThS, trong khi chỉ tiêu đào tạo ĐH chính quy của trường chỉ có 5.500; chỉ tiêu đào tạo ThS năm 2012 (đợt 1) của Trường ĐH GTVT Hà Nội lên đến hơn 1.000. Đó chỉ là số liệu ở 2 trường, nếu thống kê hết, con số thật kinh khủng…
Kiểu đào tạo ồ ạt như vậy nên cho ra lò những TS, ThS “giấy” là chuyện đương nhiên. Để chấm dứt tình trạng này, nên siết chặt hơn nữa không chỉ ở trình độ đào tạo ThS mà cả TS, nếu không, những TS, ThS “giấy” sẽ tiếp tục ra lò…
Video đang HOT
Vĩnh Hy
Theo người lao động
Nước ta có 24.000 tiến sĩ nhưng vẫn thiếu những nhà khoa học giỏi
"Thật trớ trêu khi một đất nước có 24.000 tiến sĩ, 101.000 thạc sĩ mà không tìm ra được những chuyên gia đầu ngành, nhà khoa học đủ giỏi để trở thành các tổng công trình sư các đề tài lớn, có ý nghĩa quốc gia" - đại biểu Hoàng Thị Tố Nga phát biểu.
Chiều 20/11, Quốc hội thảo luận tại hội trường, cho ý kiến lần đầu về dự thảo luật Khoa học công nghệ sửa đổi.
Đại biểu Trần Du Lịch (Thành phố Hồ Chí Minh) cho rằng cần đặt lại vấn đề tiếp cận đối với dự án luật. Mục tiêu của dự án Luật cần thể hiện rõ quan điểm: khoa học công nghệ phải phục vụ cho sự nghiệp hóa, công nghiệp hóa đất nước; khoa học không chỉ vị khoa học mà khoa học phải vị nhân sinh.
Ông Lịch cho rằng, đã đến lúc cần thay đổi hoàn toàn phương thức Nhà nước "bao cấp" cho khoa học công nghệ, chuyển sang phương thức "tài trợ ngân sách Nhà nước" mà nhiều nước trên thế giới đang thực hiện.
Đại biểu Phạm Xuân Thắng (Hải Dương) đặt câu hỏi, những năm qua nhà nước đã đầu tư khá lớn để phát triển khoa học công nghệ. Các đề tài phát triển nhiều hơn nhưng hiệu quả chưa tương xứng. Trình độ khoa học công nghệ của Việt Nam vẫn đi sau các nước trong khu vực, vẫn thiếu những công trình, sáng chế tầm cỡ, tỉ lệ các đề tài nghiên cứu được đưa vào ứng dụng cũng khiêm tốn. Điểm nghẽn trong 10 năm thực hiện luật Khoa học công nghệ vừa qua là cơ chế đầu tư cho lĩnh vực này vẫn còn nhiều bất cập.
Đại biểu Nguyễn Ngọc Hạnh cũng nhận định, hạn chế bất cập của luật hiện tại cần được thay đổi sửa chữa rõ nhất là về cơ chế tài chính cho khoa học công nghệ.
Hàng năm, khoản đầu tư cho khoa học công nghệ luôn chiếm 2% GDP như thời gian qua, đại biểu cho là không hề nhỏ nhưng dàn trải, thiếu trọng điểm. Đại biểu đề xuất thành lập cơ quan nhà nước đủ tâm và tầm trong lĩnh vực này để đề xuất các đề án khoa học xứng tầm quốc gia.
Ngoài ra, cần khuyến khích, trọng dụng tài năng thực sự với quan điểm đầu tư cho khoa học cần chấp nhận rủi ro, chấp nhận một dự án đầu tư lớn có thể không thành công nhưng cần giám sát. "Có lẽ không ở ngành nào mà câu "thất bại là mẹ thành công" đúng hơn với lĩnh vực nghiên cứu khoa học" - đại biểu lập luận.
Tán thành những phân tích về những bất cập hiện tại, đại biểu Đỗ Văn Vẻ (Thái Bình) chỉ ra thực tế, cơ chế tài chính là vướng mắc lớn nhất vì vẫn còn cung cách bao cấp, chậm giải ngân, chưa bảo đảm sử dụng đúng mục đích và hiệu quả. Ông Vẻ dẫn chứng: "Thủ tục quá phức tạp, nhà khoa học nhiều khi phải lách luật để được thanh toán cho các đề tài".
Đại biểu Hoàng Thị Tố Nga (Nam Định) cũng nhận định, từ khi được duyệt đề tài cho đến khi cấp vốn mất mấy năm trời, nhiều nhà khoa học phải chia nhỏ đề tài để được thanh toán, trái với bản chất trung thực của khoa học, thủ tục thì phức tạp, mất thời gian, khiến họ nản lòng.
Đại biểu Hoàng Thị Tố Nga trăn trở: Để có tiền làm dự án, nhiều nhà khoa học đã phải làm những việc trái với bản chất trung thực của khoa học.
Bà Nga dẫn bài học của Hàn Quốc, từ thập niên 60 của thế kỷ trước, quốc gia này đã có chế độ mời những nhà khoa học người Hàn định cư ở nước ngoài về làm việc lại trong nước với mức lương thưởng cao gấp 3 các nhà khoa học trong nước. Chế độ đãi ngộ, trọng dụng nhân tài rất ưu việt nên chỉ trong 20 năm Hàn quốc đã trở thành 1 nước khoa học công nghệ rất phát triển, là đất nước tiến hành CNH, HĐH đất nước nhanh chóng, thành công nhất.
So dánh với Việt Nam, bà Nga thở dài cho rằng, không những không có chính sách cụ thể để trọng dụng mà còn có nhiều rào cản cản trở hoạt động của nhân tài. Nữ đại biểu chỉ nguyên
nhân, môi trường làm việc, các cơ chế khuyến khích... đều còn hạn chế khiến ta bị chảy máu chất xám các nhà khoa học sang khu vực tư nhân hoặc ra nước ngoài. Đại biểu kể, có 1 vị viện trưởng viện nghiên cứu của ngành nông nghiệp đã từng than muốn tuyển, giữ người làm ở Viện này thì chỉ có thể... tuyển tại chức.
Bà Nga thốt lên: "Thật trớ trêu khi một đất nước có 24.000 tiến sĩ, 101.000 thạc sĩ mà không tìm ra được những chuyên gia đầu ngành, nhà khoa học nào đủ giỏi để trở thành các tổng công trình sư cho các đề tài lớn, có ý nghĩa quốc gia".
Đại biểu Đoàn Nguyễn Thùy Trang (TPHCM) cũng dẫn bài học của Canada đã vạch chiến lược đầu tư khoa học công nghệ tập trung vào khối doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho rằng đó là hướng gợi ý để đổi mới khoa học công nghệ ở Việt Nam.
Theo bà Trang, làm khoa học trong bối cảnh thực tế hiện nay cũng cần nghiêng về trọng cầu chứ không chỉ là trọng cung như trước nay, nghĩa là phải làm theo hướng đặt hàng của doanh nghiệp, xây dựng mối quan hệ tốt giữa doanh nghiệp với người làm khoa học công nghệ. Hợp tác công tư là nền tảng của việc phát triển khoa học và có như vậy cung - cầu khoa học công nghệ mới gặp nhau.
Bà Trang cũng đề xuất những cơ chế mới để các nhà khoa học tham gia phản biện chính sách phát triển đất nước. "Vì không có cơ chế nên hiện các dự án có cái mời cái không, nếu phản biện thuận lợi thì mời, nếu thấy khả năng sẽ gây khó khăn cho dự án thì thôi. Trong khi đó, các nhà khoa học lại thường giàu tự trọng, không ai chạy chọt để "xin" được phản biện dự án này, chương trình kia. Vậy nên mới có nhiều sai sót đáng tiếc, không huy động được nguồn lực các nhà khoa học" - đại biểu lập luận.
Để thực sự tạo điều kiện cho các nhà khoa học cống hiến, đại biểu Huỳnh Thành Đạt (TPHCM) còn kiến nghị luật hóa chức năng phản biện xã hội của các nhà khoa học, để tạo sự đồng thuận giữa nhà khoa học và nhà quản lý. Theo ông Đạt, cần giải phóng các nhà khoa học khỏi những vấn đề hành chính, thủ tục buồn chán, mất thời gian để họ tập trung nghiên cứu khoa học.
P.Thảo
Theo dân trí
Việt Nam nhiều tiến sĩ nhất ASEAN, nhưng lại ít chất xám Thiếu một quy chế dân chủ, đó là lý do chúng ta thiếu sự sáng tạo trong khoa học. Chúng ta luôn nói khoa học công nghệ (KHCN) là quốc sách nhưng dường như không bao giờ quan tâm đến quốc sách! "Tình hình khoa học, giáo dục nước nhà rất cấp bách" "Tình hình khoa học, giáo dục nước nhà rất cấp...