Chuyện về nữ giáo viên tình nguyện lên Mù Cang Chải gieo chữ
Tình nguyện viết đơn lên Mù Cang Chải dạy học, đến nay, cô giáo Đỗ Thị Loan, Phó Hiệu trưởng Trường mầm non Kim Nọi, xã Kim Nọi, huyện Mù Cang Chải, Yên Bái đã coi Mù Cang Chải là quê hương thứ hai và mang sáng kiến kinh nghiệm để gieo tiếng Việt cho những t.rẻ e.m đồng bào dân tộc Dao, H’Mông.
Học tiếng địa phương để giúp học sinh ra lớp
15 năm trước cô giáo Đỗ Thị Loan, Phó Hiệu trưởng Trường mầm non Kim Nọi, xã Kim Nọi, huyện Mù Cang Chải, Yên Bái nghe theo tiếng gọi của Nhà nước, ngành giáo dục, cô đã viết đơn tình nguyện lên miền núi để dạy học.
Khi mới tiếp nhận công việc, cô giáo Đỗ Thị Loan tới trường mầm non xã La Pán Tẩn, cách thị trấn Mù Cang Chải 25km.
Cũng như những giáo viên khác, khó khăn lớn nhất của cô giáo Đỗ Thị Loan là đi lại. Mỗi ngày, cô giáo Loan phải đi bộ hơn 10km ở đường mòn trên núi để đến điểm trường chính.
“Thời tiết bất thường như mưa gió, lạnh giá, đôi chân tôi thường sưng, đỏ tấy vì đi bộ quá xa. Chúng tôi đến trường khi sương chưa tan và trả trẻ khi mặt trời khuất bóng”, cô giáo Đỗ Thị Loan nói.
Cô giáo Đỗ Thị Loan (áo đen, bên phải) cùng học sinh Trường Mầm non Kim Nọi trong giờ Stem. Ảnh: NVCC.
Bên cạnh đường đi khó khăn, cô giáo Đỗ Thị Loan nhận ra khó khăn tiếp theo là ngôn ngữ để giao tiếp với học trò của mình. Đến trường học sinh nói tiếng địa phương, cô giáo lại không hiểu và lại càng khó khăn hơn khi giao tiếp với phụ huynh.
Cô giáo Đỗ Thị Loan cho biết: “Tôi bắt đầu học tiếng địa phương từ những câu sinh hoạt hằng ngày. Nhờ đó, tôi có thêm kinh nghiệm về cách giảng dạy các con để bài giảng của mình và các hoạt động trong ngày hiệu quả”.
Thấu hiểu những thiệt thòi của t.rẻ e.m vùng khó, mỗi lúc gặp khó khăn cô giáo Đỗ Thị Loan luôn tự động viên mình để không bỏ cuộc. Bởi, các em nhỏ chính là thế hệ tương lai của người vùng cao nơi đây.
Sau khoảng thời gian công tác tại xã La Pán Tẩn và trường Mầm non Bông Sen (xã Chế Cu Nha), năm 2021 cô giáo Đỗ Thị Loan được điều chuyển về Trường mầm non Kim Nọi với vai trò là Phó hiệu trưởng trường. Trường hiện có 198 học sinh và 100% các em là dân tộc H’mông. Những sáng kiến kinh nghiệm về dạy và học tiếng Việt cho trẻ mầm non tiếp tục được nhân rộng và có quy mô cấp tỉnh.
Video đang HOT
Những ước mong cho trẻ vùng cao
Nhận ra khó khăn lớn nhất trong việc dạy học là ngôn ngữ. Do đó, những đề tài sáng kiến kinh nghiệm của cô giáo Đỗ Thị Loan luôn tập trung vào vấn đề này.
Cô Đỗ Thị Loan cho biết: “Khó khăn lớn nhất của các cô giáo miền xuôi lên vùng cao dạy học là bất đồng ngôn ngữ. Lúc này, giáo viên buộc phải có kiến thức cơ bản để giao tiếp với trẻ và phụ huynh… Sáng kiến kinh nghiệm tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non ra đời và được thí điểm tại 3 huyện của tỉnh Yên Bái: Huyện Lục Yên (chủ yếu là dân tộc Dao), huyện Trạm Tấu, Mù Cang Chải )chủ yếu là dân tộc H’Mông). Chúng tôi tổ chức hoạt động song ngữ trong mọi hoạt động để trẻ được tham gia”.
Bên cạnh đó, sáng kiến của cô giáo Đỗ Thị Loan về việc giữ gìn văn hoá dân tộc của đồng bào địa phương trong trường mầm non được đ.ánh giá cao. Sáng kiến này được đặt tại các huyện: Lục Yên, Văn Chấn, Trạm Tấu, Mù Cang Chải (Yên Bái).
Trong lớp học, cô giáo lên ý tưởng trang trí lớp học với những hình ảnh trang phục của đồng bào dân tộc. Trong tuần, trường tổ chức hoạt động múa giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Mông, bố trí “góc địa phương” mở phiên chợ vùng cao ở sân trường để giúp các em nhỏ không quên được những nét đẹp văn hóa truyền thống dân tộc mình.
Hai sáng kiến này của cô giáo Đỗ Thị Loan đã được Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái công nhận và áp dụng đại trà cho các huyện.
15 năm gắn bó với nghề, rồi làm quản lý, ước mong lớn nhất của cô giáo Đỗ Thị Loan vẫn là vì học trò. “Tôi mong Nghị định 105 của Chính phủ về hỗ trợ t.iền ăn trưa cho trẻ mầm non được phủ rộng đối tượng hơn nữa. Bởi, Nghị định 105 mới chỉ hỗ trợ trẻ ở độ t.uổi mẫu giáo, còn trẻ độ t.uổi nhà trẻ chưa được hưởng. Nếu được hưởng chính sách này, trẻ vùng cao sẽ đi học chuyên cần hơn”, cô giáo Đỗ Thị Loan nói.
Mong ước tiếp theo mà cô giáo Đỗ Thị Loan muốn gửi gắm là đảm bảo tỷ lệ giáo viên cho vùng khó. Cô giáo Đỗ Thị Loan cho biết: “Hiện nay, huyện Mù Cang Chải có 205 lớp học mầm non, nhưng chỉ có 313 giáo viên. Tỷ lệ giáo viên mầm non là 1,5, rất khó khăn với giáo viên. Tình trạng trẻ mầm non phải học lớp ghép rất nhiều. Ở trường tôi có 8 lớp học với 198 học sinh nhưng có đến 6 lớp mẫu giáo ghép. Đội ngũ giáo viên không đảm bảo”.
Với cô giáo Đỗ Thị Loan, 15 năm trước nhận nhiệm vụ với những hụt hẫng vì nhiều khó khăn. Nhưng giờ đây, Mùa Cang Chải là quê hương thứ hai của cô. Những giáo viên cắm bản như cô giáo Loan đều mong muốn trẻ đi học chuyên cần và thêm những chính sách để giáo viên yên tâm công tác.
Chuyện nữ giáo viên 'cắm bản' ở huyện biên giới Sốp Cộp
Giảng dạy ở các xã vùng cao của huyện Sốp Cộp (Sơn La) khó khăn, thiếu thốn đủ bề, nhưng các giáo viên ở đây vẫn luôn nhiệt huyết với nghề.
Một tiết dạy của cô giáo Lò Thị Nga.
Gian nan đường đến trường...
Như lời hẹn, cô Lò Thị Nga (giáo viên Trường PTDTBT Tiểu học Mường Lạn, huyện Sốp Cộp) dẫn chúng tôi lên tận điểm trường Huổi Pá nơi cô công tác. Chiếc xe máy oằn mình băng qua những đoạn dốc dựng đứng, quanh co. Có chỗ thì đường đất lầy lội, trơn trượt. Sương mù giăng kín kèm theo cơn mưa phùn lất phất khiến đoạn đường lên Huổi Pá vốn đã khó khăn, nay càng khó khăn hơn.
Huổi Pá được biết đến là điểm trường khó khăn nhất ở xã Mường Lạn. Con đường từ trung tâm xã đến điểm trường dài khoảng 20km, nhưng là đường đất, nhiều dốc dựng đứng. Nhưng không vì thế mà các giáo viên nơi đây chùn bước. Đều đặn vào sáng thứ hai hàng tuần, cô Nga cùng với đồng nghiệp vượt hơn 50km từ nhà đến đây để giảng dạy học. Họ phải rời nhà từ lúc 4h.
Đường đến trường của các cô giáo cắm bản.
Cô giáo Lò Thị Nga bộc bạch: "Khổ nhất là lúc trời mưa, đường trơn trượt. Cứ đi một đoạn thì bùn đất lại dính vào bánh xe, không thể đi được. Nhiều lúc tôi bị ngã, bẩn hết quần áo và đồ đạc mang theo. Muốn đi tiếp thì một người lái, người còn lại ở phía sau đẩy xe. Những hôm mưa, có khi phải mất nửa ngày mới đến điểm trường được".
Dạy ở đây đã 3 năm, nên cô Nga cũng có thêm nhiều kinh nghiệm. Trong hành trình bám bản của mình, mỗi khi thấy trời "giở chứng", hành trang cá nhân lại có thêm bánh mì, nước lọc. Đó là nguồn năng lượng phù hợp để giáo viên ở đây lấy lực đi tiếp vì quán xá cũng chẳng có. Có những khi trời đổ mưa đến cả tháng trời, họ chẳng thể trở về. Tất cả lại gắn bó với những món ăn quen thuộc như: Trứng, cá khô, mì tôm ...
Điểm trường Tiểu học Huổi Pá có 3 giáo viên phụ trách giảng dạy thì có 2 người là nữ. Quãng đường quá xa nên cả 3 đều ở lại, chỉ về vào mỗi cuối tuần.
Nơi đây, không chỉ thiếu về cơ sở vật chất phòng, lớp học, mà nhà ở công vụ của giáo viên cũng tạm bợ. Để có nơi ăn ở, sinh hoạt trong thời gian ở lại trường, các cô giáo điểm trường Huổi Pá phải ở nhờ phòng của điểm trường mầm non bên cạnh. Căn phòng nhỏ chưa đầy 20m2 là nơi ở và làm việc của 2 cô giáo.
Cô và trò điểm trường Huổi Pá trong giờ học tập ngoại khóa.
Cô Lò Thị Hiệp chia sẻ: Do điểm trường Huổi Pá ở nơi hẻo lánh, nằm xa trung tâm xã nên điều kiện sinh hoạt thiếu thốn và khó khăn. Có thời điểm mưa lớn đường sạt lở, trơn trượt không về nhà được, giáo viên phải vào bản xin rau và gạo để duy trì. Ở đây không có chợ, nên có t.iền cũng chẳng biết mua thực phẩm ở đâu.
"Cuối tuần về nhà chúng tôi thường mua các thực phẩm như: Cá khô, mì tôm, trứng... để dự trữ, phòng trường hợp trời mưa không về nhà được. Mỗi lúc từ nhà đến trường, đồ đạc rất lủng củng, trông chúng tôi giống như người buôn bán hàng rong vậy", cô Hiệp kể.
Những lúc rảnh, cô Nga và cô Hiệp lại rủ nhau tăng gia sản xuất. Họ trồng thêm luống rau để cải thiện bữa ăn. Thiếu thốn đủ bề, nhưng bằng sự nhiệt huyết và lòng yêu nghề, hai cô giáo vùng cao nơi đây vẫn luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Cô Hiệp và cô Nga chăm sóc vườn rau.
Giữ nguyên "lửa" nhiệt huyết ...
Cũng ở ngôi trường này, song lại là điểm trường bản Cống - nơi có điều kiện tương tự, cô giáo Lò Thị Cương chẳng "khấm khá" hơn. Học sinh ở đây còn thiếu nhiều dụng cụ học tập. Đặc biệt, học sinh đa phần còn chưa biết tiếng phổ thông việc rào cản sinh ra càng lớn. Việc truyền tải kiến thức của giáo viên gặp khó, học sinh chậm tiếp thu bài học.
Không những thế, ở đây học sinh đa số ở bán trú. Vì vậy, mỗi người như cô Cương không chỉ là giáo viên, mà họ còn kiêm thêm vai trò làm mẹ. Hàng ngày, họ đều phải hướng dẫn các em từ những việc nhỏ nhất, như vệ sinh cá nhân.
"Tôi giảng dạy xa nhà tính đến nay cũng hơn 3 năm. Nhiều lúc không có thời gian chăm sóc con, nhất là những lúc con ốm đau phải nhờ ông bà nội trông nom. Lắm lúc nhớ con mà rơi nước mắt. Nhưng vì sự nghiệp giáo dục, vì nhiệm vụ công việc được giao nên cũng xác định dù khó khăn, vất vả đến mấy thì tôi cũng sẽ cố gắng vượt qua", cô Cương thổ lộ.
Thầy Quàng Văn Hồng, Hiệu trưởng nhà trường nói: "So với giáo viên nam thì các cô vất vả hơn. Không chỉ dạy học, họ còn phải chăm sóc gia đình, con cái. Gian nan là thế, song các cô rất tâm huyết với nghề. Họ vẫn luôn quyết tâm bám trường, bám lớp, cùng ăn, ở với học sinh. Họ coi học sinh như con, em trong gia đình. Để san sẻ khó khăn, chúng tôi đã hoán đổi. Ví dụ như năm nay ở điểm khó khăn thì năm sau sẽ được luân chuyển đến vùng thuận lợi hơn".
Trường PTDTBT Tiểu học Mường Lạn nằm ở vùng biên giới (giáp biên với nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào). Trường chính cách trung tâm huyện Sốp Cộp 30km, với 11 điểm trường lẻ. Toàn trường có 74 cán bộ, giáo viên, trong đó hơn một nửa là nữ.
“Gia tài đồ sộ” của người thầy hơn 20 năm “gieo chữ” trên bản khó Thầy giáo Phùng Thế Tùng có một "tài sản" vô cùng quý giá, tích lũy được sau hơn 20 năm. Động lực để vượt qua "thử lửa" Huyện biên giới Mường Khương (Lào Cai) là mảnh đất còn nhiều khó khăn. Suốt nhiều năm qua, biết bao thế hệ giáo viên từ mọi miền đã "gùi chữ lên non" và lặng thầm gắn...