Chuyên gia “mổ xẻ” giáo dục sớm cho trẻ trong thời đại công nghệ
Hội thảo quốc tế “Giáo dục sớm trong thời đại công nghệ: những cơ hội và thách thức” được Trường ĐH Giáo dục (ĐHQG Hà Nội) tổ chức sáng nay (28/12) với sự tham gia của đông đảo chuyên gia trong và ngoài nước.
TS. Nguyễn Đức Huy, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Giáo dục, ĐHQG Hà Nội phát biểu tại hội thảo.
Theo TS. Nguyễn Đức Huy, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Giáo dục, sự phát triển trong những năm đầu đời là giai đoạn phát triển quan trọng nhất của một con người, là nền tảng cho sự phát triển về thể chất lẫn tinh thần, cũng như văn hóa và nhận thức trong tương lai của cả cuộc đời.
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, và bối cảnh triển khai giáo dục cá nhân hóa, phát triển các hệ thống học tập suốt đời, thì các tri thức, công cụ, phương tiện cho giai đoạn phát triển sớm của trẻ được diễn ra một cách an toàn, lành mạnh và có lợi nhất ngày càng trở nên quan trọng và bức thiết.
“Với nhu cầu liên tục của việc đổi mới sao cho phù hợp của giáo dục sớm và khả năng dẫn dắt, thực hiện và thực hiện có hiệu quả, hội thảo do Trường ĐH Giáo dục tổ chức hôm nay kỳ vọng mở ra diễn đàn để các chuyên gia, nhà khoa học, thầy cô giáo, học viên trong và ngoài nhà trường công bố các nghiên cứu trong lĩnh vực giáo dục sớm; đề xuất một số mô hình đào tạo, bồi dưỡng giáo dục sớm ở Việt Nam và quốc tế. Đồng thời, đưa ra những giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng nghiên cứu và các mô hình giáo dục sớm hiện nay.” – TS Nguyễn Đức Huy chia sẻ.
PGS.TS.Trần Thành Nam, Chủ nhiệm Khoa Các Khoa học Giáo dục (Trường ĐH Giáo dục) phát biểu tại hội thảo.
Cũng khẳng định tầm quan trọng của giáo dục sớm, PGS.TS.Trần Thành Nam, Chủ nhiệm Khoa Các Khoa học Giáo dục (Trường ĐH Giáo dục), cho biết: Các nhà khoa học thần kinh và các nhà giáo dục học đều nhất trí rằng những trải nghiệm đầu đời có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển não bộ và năng lực học tập khi trưởng thành.
Bộ não của trẻ từ giai đoạn sơ sinh đến 5 tuổi là linh hoạt nhất, dễ thích ứng nhất với mọi hoạt động trải nghiệm và tương tác với môi trường. Giai đoạn này, các kết nối thần kinh của trẻ có nhiều gấp đôi số kết nối thần kinh khi trưởng thành.
Và những tương tác với cha mẹ, người lớn khác và bạn đồng trang lứa sẽ điêu khắc nên những hệ kết nối làm nền tảng vững chắc cho sự nghiệp học tập sau này. Đó là lý do tại sao việc nuôi dưỡng và phát triển những năng lực xã hội, cảm xúc, nhận thức, ngôn ngữ trong những năm đầu đời lại quan trọng như vậy.
Video đang HOT
Nói đến giáo dục sớm là nói đến việc đánh thức năng lực tiềm ẩn và vô hạn của con người, bồi dưỡng nền tảng tính cách ở giai đoạn trí tuệ con người phát triển nhất (bộ não đang phát triển). Bởi bản chất của giáo dục sớm là đem đến cho con trẻ một cuộc sống đầy thú vị, nhưng phải được được kích thích, rèn luyện một cách phù hợp nhằm nâng cao tố chất cơ bản, nó không nhằm tích lũy kiến thức và khác hoàn toàn với giáo dục thông thường.
Hội thảo có sự tham gia của đông đảo chuyên gia trong và ngoài nước.
Khởi đầu của giáo dục sớm phải nói đến “Phương án 0 tuổi” do GS Phùng Đức Toàn và cộng sự đã nghiên cứu và triển khai tập trung vào việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ trong nôi. PGS Đinh Kim Thoa, nguyên trưởng khoa các Khoa học Giáo dục, Trường ĐH giáo dục cũng là một trong các thành viên tham gia nghiên cứu, học tập tại nước ngoài về chương trình này.
Trong khuôn khổ dự án Quỹ Giáo dục Xã hội dân sự giai đoạn 2012-2015, Hiệp hội Vì Giáo dục cho mọi người Việt Nam (VAEFA), đã tài trợ cho Viện IPD – là một đơn vị thành viên của VAEFA – tiến hành nghiên cứu “Đề xuất chính sách cải thiện cơ hội chăm sóc, giáo dục sớm trẻ từ 0 – 3 tuổi”; và giai đoạn 2016 – 2018, tiếp tục hỗ trợ cho Viện IPD chủ trì phối hợp với Trường CĐ Sư phạm Trung ương phối kết hợp thực hiện dự án “Vận động bổ sung nội dung giáo dục sớm trẻ em từ 0 – 3 tuổi vào chương trình đào tạo sinh viên mầm non tại Trường CĐ Sư phạm Trung ương”.Đây là khởi đầu cho việc đưa giáo dục sớm vào đào tạo giáo viên mầm non chính thống.
Tiếp sau đó, từ 2017 đến nay các phương pháp như Montessori, Steam, Reggio Emilia… luôn được các nhà giáo dục và giáo dục mầm non quan tâm. Tuy nhiên các nghiên cứu về giáo dục sớm trong thời đại công nghệ chưa được nghiên cứu chuyên sâu…
Tại hội thảo, các chuyên gia cung trao đôi, thao luân tập trung vào 4 chủ đề chính: Thực trạng và phương pháp giáo dục sớm hiện nay; Thực tế vận dụng và hiệu quả các phương pháp giáo dục sớm; Đào tạo và nguồn nhân lực giáo dục sớm; Giáo dục sớm cho trẻ có nhu cầu đặc biệt. Đây là những nội dung quan trọng giúp nâng cao chất lượng nghiên cứu và các mô hình giáo dục sớm hiện nay; đồng thời là tham khảo ý nghĩa cho cơ quan quản lý để đưa ra các chính sách về giáo dục sớm.
Trường chuyên là cần thiết trong bối cảnh đổi mới giáo dục
Từng là cựu học sinh chuyên Toán và giảng dạy trong trường chuyên 7 năm, TS Nguyễn Đức Huy, Phó hiệu trưởng Trường ĐH Giáo dục, ĐHQG Hà Nội cho rằng: Trường chuyên là cần thiết trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay.
Ảnh minh họa/internet
Khẳng định của TS Nguyễn Đức Huy: việc thành lập các lớp Toán đặc biệt, các khối chuyên toán ở các trường ĐH, sau đó là các trường chuyên (lúc đầu chỉ là Toán, Văn, sau đó là các chuyên khác) là một thành công, là điểm sáng của ngành Giáo dục. Chất lượng đào tạo của các trường chuyên được khẳng định.
Các cựu học sinh chuyên đều có vị trí, có đóng góp cho xã hội, hội nhập được trong môi trường quốc tế. Trường chuyên đồng thời là môi trường tốt để bồi dưỡng và phát triển tài năng, phù hợp dạy học cá nhân hoá, phân hoá đối với học sinh THPT.
Thầy và trò trường chuyên đều được nâng cao chất lượng trong quá trình dạy và học, thúc đẩy mặt bằng chung của đội ngũ giáo viên, học sinh. Việc chú trọng tiếng Anh trong các trường chuyên, tham gia các kỳ thi quốc tế giúp hệ thống này hội nhập, đạt trình độ phổ thông quốc tế.
- Trong những nội dung chia sẻ ở trên, theo ông, đâu là đóng góp đáng kể nhất của trường chuyên?
Theo tôi, đóng góp đáng kể nhất của các trường chuyên là cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước, nhất là đội ngũ cán bộ khoa học. Nhiều cựu học sinh trường chuyên không chỉ thành công ở Việt Nam, giữ nhiều vị trí quan trọng của đất nước, mà còn thành công ở các nước phát triển trên thế giới. Các trường chuyên cũng mang về rất nhiều giải cao trong các cuộc thi khu vực, quốc tế, là cảm hứng để thế hệ trẻ Việt Nam vươn lên trong học tập, nghiên cứu khoa học.
Thầy và trò trường chuyên được làm việc trong môi trường cạnh tranh, đặc biệt sự tham gia các chuyên gia, các giáo sư đại học cho đào tạo chuyên giúp nâng cao trình độ của cả thầy và trò. Qua các kỳ thi, sự tiếp diễn trong quá trình dạy học góp phần quan trọng nâng cao mặt bằng chung về các môn học trong chương trình phổ thông.
Trường chuyên cũng đóng góp một mô hình nhà trường cho Việt Nam; và mô hình này cần tiếp tục đổi mới, thích ứng sự phát triển của kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật.
TS Nguyễn Đức Huy
- Cụ thể là cần đổi mới thế nào, thưa ông?
Trong thời gian qua, các trường chuyên luôn được quan tâm, chất lượng đào tạo được khẳng định, thành tích thi quốc tế ổn định với nhiều giải cao, bên cạnh đó các trường chuyên cũng đã đổi mới nhiều trong hoạt động dạy học, có thêm những hoạt động trong nhà trường như hoạt động thể chất, nghệ thuật, khoa học... qua nhiều hình thức khác nhau, tuy nhiên cần tiếp tục đổi mới thích ứng hơn nữa.
Cụ thể, trước hết cần đổi mới phương pháp và công nghệ dạy học chứ không chỉ kiến thức chuyên môn. Đôi khi, các thầy cô trường chuyên giỏi chuyên môn nhưng chưa chú trọng lắm đến phương pháp, công nghệ dạy học.
Thứ 2, các trường chuyên đã chú ý đến giáo dục toàn diện, có các hoạt động câu lạc bộ, các hoạt động trải nghiệm... Trường chuyên trước hết là trường phổ thông, nên phải thực hiện đầy đủ, không hình thức, cắt xén yêu cầu giáo dục phổ thông theo quy định của Bộ GD&ĐT. Điều này đặt ra mỗi trường chuyên cần phát triển chương trình của Nhà trường đáp ứng yêu cầu chương trình phổ thông đồng thời thực hiện nhiệm phát hiện, bồi dưỡng, ươm mầm các tài năng.
Thứ 3, thực hiện đổi mới thi đầu vào theo đánh giá năng lực. Các chuyên gia Trường ĐH Giáo dục (ĐHQG Hà Nội) đã xây dựng công cụ đánh giá chỉ số thông minh IQ, cảm xúc EQ, vượt khó AQ để tuyển sinh cho một số trường chuyên từ năm 2013. Đây là hướng hay để tuyển chọn đầu vào cho các trường chuyên cần phát triển nhằm phát hiện học sinh có năng lực những môn hay lĩnh vực cụ thể và tránh được việc luyện thi để vào trường chuyên ở THCS.
Thứ 4, có thể tập trung một số "nhóm môn" chứ không chuyên biệt. Ví dụ: chuyên Toán-Lý, chuyên khoa học tự nhiên, chuyên khoa học xã hội, hay lớp học định hướng kiểu STEM; chú trọng Toán, Khoa học, Tiếng Anh (Trường THPT Khoa học giáo dục, thuộc Trường ĐH Giáo dục đang triển khai theo hướng này).
- Nói riêng về việc đầu tư cho trường chuyên, theo ông hiện chúng ta đã đầu tư hợp lý cho trường chuyên hay chưa?
Đầu tư có trọng điểm là cần thiết. Đầu tư cho trường chuyên nhiều hơn so với các trường phổ thông đại trà là do mô hình, yêu cầu của chương trình; các hoạt động thí nghiệm, thực nghiệm; bồi dưỡng, trả lương giáo viên chuyên cao hơn giáo viên bình thường do công sức bỏ ra nhiều hơn so với các mô hình khác... là phù hợp. Với hiệu quả trường chuyên mang lại, thì mức đầu tư như vậy vẫn chưa được coi là nhiều.
Tôi cho rằng, đầu tư cho trường chuyên, ngoài cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, nên đầu tư trực tiếp cho học sinh ở những vùng khó khăn, như chính sách với học sinh nội trú, chính sách học bổng và học phí hợp lý giảm chi phí đầu tư công của nhà nước. Ngoài ra, việc đầu tư cần đúng vào hoạt động của trường chuyên. Ví dụ, học phí hệ cận chuyên phải cao hơn nữa, để đáp ứng chi phí đào tạo và các hoạt động khác ngoài (lương giáo viên, khấu hao vật tư, cơ sở vật chất...).
- Ông nghĩ sao với ý kiến cho rằng nên tư nhân hóa trường chuyên?
Một mô hình đang tốt thì cần đổi mới để phát triển chứ không phải thay đổi kiểu tư nhân hoá; nhất là mô hình trường chuyên đã được đưa vào Luật Giáo dục. Chưa kể, không thể định giá trường chuyên, nhất là những tài sản vô hình.
Vấn đề cần bàn là làm thế nào để trường chuyên đáp ứng yêu cầu: "trường chuyên được thành lập ở cấp trung học phổ thông dành cho học sinh đạt kết quả xuất sắc trong học tập nhằm phát triển năng khiếu về một số môn học trên cơ sở bảo đảm giáo dục phổ thông toàn diện, tạo nguồn đào tạo nhân tài, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước" đã ghi trong Luật Giáo dục 2019, tạo công bằng cho học sinh có năng lực đáp ứng đều được học tập bình đẳng.
- Xin cảm ơn ông!
Đào tạo GV môn học mới: Trường sư phạm chuẩn bị thế nào? Hai ngành mới được tuyển sinh tại các cơ sở đào tạo GV trong cả nước đáp ứng nhu cầu về đội ngũ giảng dạy 2 môn học tích hợp (KHTN, Lịch sử và Địa lí) khi triển khai CTGDPT 2018 với lớp 6, từ năm học 2021 - 2022. Một tiết học ở Trường THCS Trần Cao Vân (TP Huế). Ảnh minh...