‘Chúng ta đang lao đao bởi nền giáo dục ứng thí’
Theo PGS.TS Trần Kiều, bản chất giáo dục nước ta vẫn là ứng thí khiến Bộ GD&ĐT luôn loay hoay về chuyện thi cử.
ảnh minh họa
Sáng 15/12, Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội tổ chức Hội nghị tham vấn chuyên gia về việc sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục. Trong số 17 ý kiến đóng góp cho Dự thảo Luật Giáo dục, nhiều chuyên gia quan tâm chương trình giáo dục phổ thông.
Bộ Giáo dục loay hoay về thi cử
Phát biểu tại hội nghị, PGS.TS Trần Kiều – nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam – cho rằng có một điều tuy không được sửa đổi trong Luật Giáo dục, nhưng nếu xem xét được sẽ rất tốt. Đó là bản chất của nền giáo dục nước ta từ trước đến nay là ứng thí. Trong khi đó, Nghị quyết 29 nói rất rõ việc chuyển hướng giáo dục trong bối cảnh đổi mới tư duy thành thực học và thực tiễn.
“Chúng ta đang lao đao, điêu đứng bởi nền giáo dục ứng thí. Bất kỳ sự đổi mới nào cũng nhận hòn đá tảng nền giáo dục này. Đến giờ, Bộ GD&ĐT luôn loay hoay về việc thi cử”, PGS.TS Trần Kiều nói.
Cũng theo nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, mục đích của sách giáo khoa nêu “yêu cầu cụ thể hóa phẩm chất và năng lực” nhưng không tác giả nào viết được như thế, vì phẩm chất và năng lực là kết quả của giáo dục chứ không phải đối tượng trực tiếp để dạy học.
Học 11 môn cũng không thể chuyên sâu
Ông Đào Tuấn Đạt – giảng viên ĐH Bách khoa Hà Nội, Hội đồng chuyên môn trường THPT Anhxtanh – đề cập chương trình phổ thông phải đảm bảo 3 tiêu chí là toàn diện, phân hóa và chuyên sâu.
Về tính chất toàn diện, chương trình hiện hành đang có 11 môn văn hóa. Theo ông Đạt, nhiều người quan niệm sai lầm rằng phải học hết 11 môn mới là toàn diện.
Video đang HOT
“Hiện nay, số môn học ở phổ thông trên thế giới khoảng 50 môn và không ngừng tăng thêm. 11 môn truyền thống trong 50 môn thì không thể gọi là toàn diện được. Học hết 50 môn thì sao? Không ai học và không thể học hết được 50 môn. Giải pháp là người ta chia các môn học làm những lĩnh vực hay nhóm môn; ví dụ ngôn ngữ, toán và khoa học máy tính, bộ môn khoa học, bộ môn khoa học nhân văn, thể chất – thể dục thể thao, các môn nghệ thuật…”, ông Đạt nói.
Theo đó, học sinh buộc phải chọn các môn từ các nhóm để đảm bảo tính toàn diện. Em nào giỏi một vài môn văn hóa, giỏi thể thao, am hiểu nghệ thuật mới là toàn diện.
“Chương trình A-level của Anh, học sinh thông thường chọn 4 môn, ít nhất 3 môn và có thể 5 môn tùy vào nhu cầu nghề nghiệp sau này. Sẽ có người giả sử rằng nếu một em không chọn môn Địa lý thì sao? Không sao cả, sẽ có em khác chọn. Phép tính trung bình phải tính cho số đông chứ không phải cá nhân. Mỗi học sinh không phải là cái thùng đựng nước để người lớn thích thì cứ rót nước vào”, ông Đạt phân tích.
Ông Đào Tuấn Đạt – Giảng viên ĐH Bách khoa Hà Nội. Ảnh: Quyên Quyên.
Theo giảng viên này, tính chất phân hóa thể hiện ở việc, mỗi học sinh sẽ có thiên tư khác nhau, một thế mạnh bẩm sinh và có các kiểu trí thông minh khác nhau. Vì vậy, chương trình phải cho phép các em tập trung nhiều hơn môn học thuộc về thế mạnh của các em.
Xu thế từ cuối thế kỷ trước là học sinh học chuyên sâu các môn phân hóa, nhờ đó có thể rút ngắn được thời gian đại học. Nhiều người e ngại chương trình hiện nay quá tải và hàn lâm. Thực chất thì không, tính hàn lâm thể hiện ở chỗ môn học phải dựa trên hệ thống khái niệm và định luật chặt chẽ, logic, khoa học.
“Sách giáo khoa của chúng ta chỉ diễn đạt phức tạp hơn các vấn đề chứ không hàn lâm. Học sinh bị quá tải vì phải học quá nhiều môn trong khi thời gian lại ít và không chuyên sâu môn nào”, ông Đạt nêu quan điểm.
Vì vậy, theo ông, để đảm bảo tính chất chuyên sâu, chương trình và sách giáo khoa được chia làm 2 phần liên hệ hữu cơ với nhau là kiến thức lõi để phục vụ nhu cầu cơ bản và phần nâng cao cho nhu cầu chuyên sâu.
Đề xuất miễn học phí cho cả trường ngoài công lập
Tham dự hội nghị, nhiều chuyên gia đề xuất miễn học phí cho học sinh trường ngoài công lập. Ông Nguyễn Hoàng Quân, Phó trưởng phòng Chính trị Tư tưởng, Sở GD&ĐT Quảng Ninh, đồng ý với việc miễn học phí cho cấp THCS và đề xuất chính sách ưu tiên cho học sinh các trường ngoài công lập để đảm bảo công bằng.
TS Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, cho rằng chúng ta có hai loại hình trường ngoài công lập. Đó là trường tư dịch vụ tư, dành cho giới nhà giàu. Thứ hai là trường tư dịch vụ công.
“Tôi đồng ý không miễn học phí trường tư dịch vụ tư nhưng nếu trường tư dịch vụ công không được sự đầu tư của Nhà nước là không công bằng”, ông Dũng nói.
Ông Nguyễn Sĩ Dũng cho biết ông từng đi nhiều nơi, đến nhiều trường tư có dịch vụ công. Ở đó, nhiều học sinh con nhà nghèo, con em lao động… theo học vì không đủ điều kiện vào trường công lập. Vì vậy, đề xuất của ông là chia đều ngân sách cho cả trường tư cung cấp dịch vụ công, đảm bảo công bằng cho xã hội.
Theo Zing
8 yêu cầu cần có của người cán bộ quản lý giáo dục thời 4.0
Theo ThS Đàm Thị Phương - Học viện Quản lý giáo dục, để đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của nền giáo dục hiện đại trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, người cán bộ quản lý giáo dục cần đáp ứng một số yêu cầu cơ bản.
Cán bộ quản lý giáo dục cần phải thay đổi trong tư duy. Ảnh: Minh Phong
Thứ nhất, người cán bộ quản lý giáo dục phải có bản lĩnh chính trị luôn kiên định với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Biết giữ gìn kế thừa và phát triển những truyền thống thông minh, hiếu học của dân tộc; luôn cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư.
Thứ hai, phải có tầm nhìn xây dựng chiến lược, chính sách giáo dục: Người cán bộ quản lý giáo dục cần phải được trang bị về kiến thức, kỹ năng và thái độ để xác định vị trí, vai trò, tầm nhìn, sứ mệnh của giáo dục và của cơ sở giáo dục, từ đó có thể xây dựng được các chiến lược, chính sách phát triển giáo dục và cơ sở giáo dục.
Thứ ba, phải có năng lực quản lý nguồn nhân lực giáo dục: Cán bộ quản lý giáo dục cần phải thay đổi trong tư duy về vai trò và nội dung của các chính sách phát triển và quản lý nguồn nhân lực giáo dục và cơ sở giáo dục.
Vấn đề đặt ra cho cán bộ quản lý giáo dục là biết vận dụng lý luận, cơ sở pháp lý để triển khai các nội dung quản lý nguồn nhân lực ở cơ sở mình từ tuyển dụng, bố trí công việc, phân công nhiệm vụ, đánh giá, khen thưởng kỷ luật, chính sách đãi ngộ...
Thứ tư, phải có năng lực chuyên môn thể hiện ở: Khả năng phân tích và giải quyết các vấn đề tình huống, phát hiện thách thức, cơ hội, nguy cơ, đề xuất các giải pháp tận dụng cơ hội và tập trung nguồn lực để giải quyết các vấn đề xung yếu, đột phá của hệ thống hoặc tổ chức; Khả năng xác định đúng phương hướng phát triển hệ thống hoặc tổ chức.
Phải có năng lực đổi mới tư duy; năng lực thích ứng hoà nhập và hội nhập; năng lực hợp tác; năng lực kiểm tra đánh giá; nắm vững luật giáo dục và hiểu biết pháp luật có liên quan; có kỹ năng phân tích tổng hợp; có lòng nhân ái, tính trung thực và khiêm tốn; có tác phong công nghiệp; có tính quyết đoán; biết ứng dụng ngoại ngữ, tin học giúp cho việc quản lý.
Thứ năm, phải có năng lực lãnh đạo ưu việt, vận dụng các phương pháp chuyển đổi để đáp ứng vai trò và trách nhiệm của người lãnh đạo nhà trường ngày càng lớn hơn, theo kịp các mục tiêu đổi mới của nhà trường.
Thứ sáu, phải có khả năng phát triển nhà trường lấy người học làm trung tâm, trong đó tạo điều kiện đề người học luôn nỗ lực đạt được kết quả cao nhất và không ngừng đổi mới đến cùng. Cần có tầm nhìn toàn cảnh và hệ thống để đảm bảo các chương trình chuyến đổi của nhà trường phải bám sát mục tiêu phát triển quốc gia ở cấp độ cao hơn.
Người cán bộ quản lý giáo dục phải bền bỉ, kiên trì và quyết tâm trên con đường giáo dục toàn diện học sinh, tạo điều kiện để các em phát huy được năng lực giải quyết các vấn đề trong đời sống, có kỹ năng sống tích cực, có kỹ năng định hướng nghề nghiệp tương lai, nhằm tham gia vào nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước trong giai đoạn hội nhập quốc tế.
Thứ bảy, phải có năng lực liên hệ giữa tầm nhìn quốc gia với trường học và quá trình thay đổi. Bối cảnh xã hội hiện nay là vạn vật kết nối internet, mọi sự vật, hiện tượng hay con người đều dễ dàng kết nối, liên hệ với nhau.
Vì vậy, người cán bộ quản lý giáo dục phải có một cái nhìn tổng quan, khách quan và so sánh giữa hệ thống giáo dục Việt Nam với giáo dục của thế giới, từ đó có những định hướng phát triển hợp lý cho giáo dục nước ta.
Thứ tám, phải có các kỹ năng khác nhau trong điều hành, giải quyết công việc như: Tổ chức công việc của bản thân, các phương pháp, quá trình, quy trình làm việc hàng ngày, kết hợp công việc trước mắt và lâu dài;
Biết cách làm việc với mọi người, hợp tác và tạo ra môi trường phát huy khuyến khích mọi người làm việc phát huy sáng tạo cá nhân; Biết kiểm tra, đánh giá và sử dụng đúng năng lực của từng người; Phát hiện được vấn đề tổng quát và chi tiết, nhận biết nhân tố động lực.
"Để đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới, đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục cần phải hội tụ được những phẩm chất, năng lực hiện đại như kỹ năng hợp tác, năng lực tu duy phản biện, kỹ năng giải quyết vấn đề, tạo động lực, phải có tầm nhìn sâu rộng, biết cách phân tích, liên hệ, so sánh giữa giáo dục Việt Nam với các nền giáo dục khác trên thế giới.
Năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục sẽ giúp nâng cao hiệu quả lãnh đạo hệ thống giáo dục nói chung, các nhà trường nói riêng, từ đó giúp giáo dục đạt được mục tiêu và sứ mệnh cao cả của mình" - ThS Đàm Thị Phương.
Theo Giaoducthoidai.vn
Nhà giáo Tây Nam bộ góp ý Dự thảo Luật Giáo dục Để lắng nghe ý kiến trực tiếp góp ý của các chuyên gia, nhà khoa học và nhà giáo, sáng 14/12, tại TP Cần Thơ, Bộ GD&ĐT tổ chức Hội thảo Góp ý Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục. Quang cảnh hội thảo Quang cảnh hội thảo Tham dự hội thảo có Thứ trưởng Bộ...