Chính thức công bố Luật Giáo dục năm 2019
Sáng 4/7, Văn phòng Chủ tịch nước họp công bố Lệnh của Chủ tịch nước về công bố các Luật vừa được Quốc hội Khóa XIV thông qua tại Kỳ họp thứ 7, trong đó có Luật Giáo dục.
Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Hữu Độ phát biểu tại buổi họp
Hành lang pháp lý xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp
Phát biểu tại buổi họp, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Hữu Độ cho biết: Luật giáo dục năm 2005 được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 14/6/2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho tổ chức và hoạt động giáo dục và đào tạo, nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, Luật Giáo dục hiện hành đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn cần phải giải quyết để thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục như: về hệ thống giáo dục quốc dân, quy định các cấp học và trình độ đào tạo, chính sách đối với người học, nhà giáo, đầu tư tài chính, quản lý nhà nước về giáo dục…
Để khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên, đồng thời nhằm kịp thời cụ thể hóa nội dung và tinh thần của Hiến pháp 2013, thể chế hóa quan điểm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn để phát triển và hội nhập quốc tế tại Nghị quyết số 29-NQ/TW, phù hợp và đồng bộ với một số luật mới ban hành thì việc ban hành Luật Giáo dục là cần thiết. Trên tinh thần đó, ngày 14/6/2019 tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIV đã xem xét, thông qua Luật Giáo dục.
Mục tiêu xây dựng Luật Giáo dục là nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về đổi mới GD&ĐT; góp phần xây dựng nền giáo dục Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; giáo dục con người yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Đồng thời, tạo hành lang pháp lý cho việc xây dựng nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng.
Quan điểm xây dựng Luật: Một là, thể chế hóa các quan điểm và định hướng của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã được nêu trong Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII, Nghị quyết số 29-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW, Nghị quyết số 88/2014/QH13…;
Hai là, cụ thể hóa các quy định mới của Hiến pháp năm 2013 với những nội dung liên quan đến phát triển GD&ĐT; bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ, tính toàn diện, khả thi, phù hợp với điều kiện thực tiễn;
Ba là, khắc phục được một số khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình thực thi Luật Giáo dục; đảm bảo tính kế thừa và phát triển các quy định của pháp luật hiện hành về lĩnh vực GD&ĐT.
Quốc hội khóa XIV thông qua 7 Luật tại kỳ họp thứ 7 (Ảnh minh họa)
7 điểm mới cơ bản
Video đang HOT
Theo Thứ trưởng Nguyễn Hữu Độ, Luật Giáo dục năm 2019 (gồm 9 chương, 115 điều), thay thế Luật Giáo dục năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục năm 2009. So với quy định Luật Giáo dục hiện hành, Luật Giáo dục có những điểm mới cơ bản sau đây:
Thứ nhất, làm rõ tính liên thông, phân luồng, hướng nghiệp trong giáo dục.
Luật Giáo dục đã bổ sung quy định cụ thể về hướng nghiệp, phân luồng và liên thông trong giáo dục, làm rõ khái niệm, nguyên tắc và cơ chế hướng nghiệp, phân luồng và liên thông, tạo hành lang pháp lý để triển khai thực hiện trong thực tiễn, bảo đảm cơ hội học tập, phát triển bình đẳng cho mọi người và giao Chính phủ quy định cụ thể (Điều 9, Điều 10).
Thứ hai, luật hóa chủ trương đổi mới chương trình, sách giáo khoa (SGK) giáo dục phổ thông (GDPT) theo Nghị quyết số 29-NQ/TW và Nghị quyết số 88/2014/QH13.
Luật Giáo dục quy định Chương trình giáo dục phổ thể hiện mục tiêu GDPT; quy định yêu cầu về phẩm chất và năng lực của học sinh cần đạt được sau mỗi cấp học, nội dung giáo dục bắt buộc đối với tất cả học sinh trên phạm vi cả nước; quy định phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động giáo dục và đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp, mỗi cấp học của giáo dục phổ thông; thống nhất trong cả nước và được tổ chức thực hiện linh hoạt, phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương và cơ sở giáo dục.
Bộ trưởng Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm về chất lượng chương trình GDPT; ban hành chương trình GDPT sau khi hội đồng quốc gia thẩm định… (Điều 31).
SGK triển khai chương trình GDPT, cụ thể hóa yêu cầu của chương trình GDPT về mục tiêu, nội dung giáo dục, yêu cầu về phẩm chất và năng lực của học sinh; định hướng về phương pháp giang day và cách thức kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục; mỗi môn học có một hoặc một số SGK, thực hiện việc xã hội hóa việc biên soạn SGK (Điều 32).
Thứ ba, bổ sung loại trường tư thục không vì lợi nhuận và việc chuyển đổi loại hình trường trường tư thục sang trường tư thục hoạt động không vì lợi nhuận; quy định cụ thể vị trí, chức năng, thành phần hội đồng trường.
Luật Giáo dục bổ sung quy định trường tư thục hoạt động không vì lợi nhuận là trường mà nhà đầu tư cam kết và thực hiện cam kết hoạt động không vì lợi nhuận, được ghi trong quyết định thành lập hoặc quyết định chuyển đổi loại hình trường; hoạt động không vì lợi nhuận, không rút vốn, không hưởng lợi tức; phần lợi nhuận tích lũy hằng năm thuộc sở hữu chung hợp nhất không phân chia để tiếp tục đầu tư phát triển nhà trường.
Đồng thời, bổ sung nguyên tắc chuyển đổi loại hình nhà trường từ trường tư thuc sang trường tư thục hoạt động không vì lợi nhuận và giao Chính phủ quy định cụ thể (Điều 47).
Về hội đồng trường, Luật Giáo dục quy định áp dụng đối với trường công lập, trường dân lập, trường tư thục và quy định vị trí, chức năng, thành phần cụ thể của hội đồng trường của từng loại hình đối với giáo dục mầm non, phổ thông; hội đồng trường của cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học thực hiện theo Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Giáo dục đại học (Điều 55).
Thứ tư, quy định nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở (THCS) và giảng viên đại học.
Luật Giáo dục quy định chuẩn trình độ đào tạo của giáo viên mầm non từ trung cấp sư phạm lên cao đẳng sư phạm, giáo viên tiểu học từ trung cấp sư phạm lên cử nhân thuộc ngành đào tạo giáo viên, giáo viên THCS từ cao đẳng sư phạm lên cử nhân thuộc ngành đào tạo giáo viên.
Trường hợp môn học chưa đủ giáo viên có bằng cử nhân thuộc ngành đào tạo giáo viên thì phải có bằng cử nhân chuyên ngành phù hợp và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Nhà giáo giảng dạy trình độ đại học từ đại học lên thạc sĩ.
Để bảo đảm tính khả thi, không làm xáo trộn, ảnh hưởng đến công tác tổ chức và hoạt động của các cơ sở giáo dục, bảo đảm chất lượng đào tạo và yêu cầu nghề nghiệp, Luật Giáo dục đã giao Chính phủ quy định lộ trình thực hiện nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở (Điều 72).
Thứ năm, quy định chính sách hỗ trợ tiền đóng học phí và chi phí sinh hoạt đối với học sinh, sinh viên (HSSV) sư phạm.
Luật Giáo dục quy định HSSV sư phạm được hỗ trợ tiền đóng học phí và chi phí sinh hoạt trong toàn khóa học. Người được hỗ trợ tiền đóng học phí và chi phí sinh hoạt sau 2 năm kể từ khi tốt nghiệp nếu không công tác trong ngành giáo dục hoặc công tác không đủ thời gian quy định thì phải bồi hoàn khoản kinh phí nhà nước đã hỗ trợ.
Thời hạn hoàn trả tối đa bằng thời gian đào tạo. HSSV sư phạm được hưởng các chính sách học bổng khuyến khích học tập, trợ cấp xã hội, miễn, giảm học phí. Quy định này nhằm khắc phục những hạn chế của chính sách không phải đóng học phí của HSSV sư phạm quy định tại Luật Giáo dục hiện hành (Điều 85).
Thứ sáu, quy định chính sách về học phí đối với học sinh diện phổ cập. Theo quy định của Hiến pháp 2013 thì Nhà nước “bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí” và theo Nghị quyết số 29-NQ/TW thì Nhà nước thực hiện phổ cập giáo dục bắt buộc 9 năm sau năm 2020.
Luật Giáo dục quy định giáo dục tiểu học là giáo dục bắt buộc; Nhà nước thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi và phổ cập giáo dục THCS.
Nhà nước chiu trach nhiêm thưc hiên giáo dục bắt buộc trong cả nước; quyết định kế hoạch, bảo đảm các điều kiện để thực hiện phổ cập giáo dục.
Mọi công dân trong độ tuổi quy định có nghĩa vụ học tập để thực hiện phổ cập giáo dục và hoàn thành giáo dục băt buôc (Điều 14). Học sinh tiểu học trong cơ sở giáo dục công lập không phải đóng học phí; ở địa bàn không đủ trường công lập, học sinh tiểu học trong cơ sở giáo dục tư thục được Nhà nước hỗ trợ tiền đóng học phí, mức hỗ trợ do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định.
Trẻ em mầm non 5 tuổi ở thôn, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng bãi ngang ven biển, hải đảo được miễn học phí và giao Chính phủ quy định lộ trình thực hiện đối với trẻ em mầm non 5 tuổi và học sinh THCS (Điều 99).
Thứ bảy, quy định về đầu tư và tài chính cho giáo dục. Luật Giáo dục quy định Nhà nước ưu tiên hàng đầu cho việc bố trí ngân sách giáo dục, bảo đảm ngân sách nhà nước chi cho GD&ĐT tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước (khoản 1 Điều 96).
Ngoài ra, Luật Giáo dục đã sửa đổi quy định quản lý chặt chẽ nguồn thu, chi tài chính, quản lý tài sản theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước và Luật Quản lý sử dụng tài sản công đối với các cơ sở giáo dục công lập; nhân manh trach nhiêm giai trinh, thực hiện chế độ kế toán, kiểm toán, thuế và công khai tài chính theo quy định của pháp luật (Điều 95, Điều 101…).
Luật Giáo dục 2019 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2020. Để bảo đảm các nội dung của Luật Giáo dục được triển khai thực hiện có hiệu quả, Thứ trưởng Nguyễn Hữu Độ cho biết: Bộ GD&ĐT đang phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan có liên quan tổ chức thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết các nội dung được giao trong Luật Giáo dục; Tổ chức tuyên truyền, phổ biến các quy định của Luật Giáo dục; Rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành để phù hợp với nội dung của Luật Giáo dục.
Hiếu Nguyễn
Theo GDTĐ
Cần giải pháp đột phá cho phân luồng giáo dục
Nhiều năm qua, chúng ta vẫn loay hoay với bài toán phân luồng học sinh trung học cơ sở (THCS), trung học phổ thông (THPT) vào học tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp (GDNN) nhưng kết quả chưa được như mong muốn.
Việc đề xuất cho phép học sinh tốt nghiệp THCS được học nghề kết hợp học văn hóa, đủ điều kiện sẽ liên thông lên các trình độ cao hơn (còn gọi mô hình 9 ) vào dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi) tới đây được xem là giải pháp tạo đột phá cho đào tạo nghề thời gian tới.
Học viên Khoa Công nghệ ô-tô (Trường cao đẳng nghề số 1 - Bộ Quốc phòng) tham dự khóa đào tạo thực hành tại xưởng.
Phân luồng vẫn tắc
Theo mục tiêu của ngành giáo dục, mỗi năm phải phân luồng được khoảng 30% học sinh sau tốt nghiệp THCS theo học các trường nghề, 70% còn lại sẽ vào lớp 10 khối THPT. Nhưng trên thực tế, trong nhiều năm qua, số học sinh tốt nghiệp THCS tham gia học nghề chưa đến 10%. Qua số liệu thống kê, năm học 2016 - 2017 học sinh tốt nghiệp THCS thi lên THPT khoảng 76%, vào học tại trung tâm giáo dục thường xuyên - giáo dục nghề nghiệp (GDTX - GDNN) khoảng 7%, vào trung cấp khoảng 8%, đi làm khoảng 9%. Trong khi đó, học sinh tốt nghiệp THPT vào đại học, cao đẳng khoảng 41%; vào các trường cao đẳng thuộc hệ thống GDNN khoảng 23%; học nghề tại trung tâm đào tạo nghề khoảng 13%... Mặc dù, ngành giáo dục cũng có chủ trương phân luồng, nhưng vấn đề "hậu phân luồng" vẫn còn nhiều trở ngại, không đạt được hiệu quả như mong muốn. Điều này khiến các cơ sở GDNN rơi vào tình trạng khó hoạt động vì tuyển học sinh khó khăn. Nhiều địa phương trong thực hiện chủ trương đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đã đề cập đến biện pháp phân luồng học sinh sau THCS. Có địa phương còn xác định, đây là biện pháp quan trọng nhằm nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo. Tùy vào điều kiện và cách thức thực hiện ở mỗi địa phương, công tác phân luồng học sinh sau THCS đã đạt một số kết quả nhất định cùng với những thay đổi về nhận thức của phụ huynh và học sinh. Nhưng nhìn chung, việc phân luồng học sinh sau THCS vẫn còn nhiều yếu kém.
Vụ trưởng Đào tạo chính quy, Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) Vũ Xuân Hùng cho biết, nguyên nhân chính dẫn tới việc phân luồng rất khó khăn trong thời gian vừa qua, đó là, nhiều địa phương còn quá tập trung đầu tư cho luồng THPT, các luồng GDTX - GDNN bị bỏ rơi hoặc đầu tư nhỏ giọt, hoạt động cầm chừng, không đủ năng lực tham gia phân luồng. Trong khi đó, đầu vào của học sinh GDTX - trung cấp chuyên nghiệp thường thấp nhưng cơ sở vật chất, trang thiết bị nhất là máy móc thiết bị cho dạy và học nghề không đáp ứng yêu cầu, kết quả "đầu ra" có nhiều hạn chế. Do kỹ năng thực hành nghề chưa tốt, cơ hội xin việc làm, tự tạo việc làm của học sinh sau khi ra trường còn nhiều khó khăn. Hiệu quả xã hội đối với luồng này không cao dẫn đến khó thuyết phục việc phân luồng... Hơn nữa, công tác hướng nghiệp trong các trường THCS chưa được quan tâm đúng mức, nhiều trường, nhiều giáo viên bỏ ngỏ công tác này, nhất là giáo dục hướng nghiệp qua môn học và tư vấn hướng nghiệp. Việc học nghề phổ thông chỉ nhằm vào mục đích cộng điểm thi tốt nghiệp là chính. Bên cạnh đó, còn có nguyên nhân từ tâm lý xã hội, khi phần lớn phụ huynh vẫn còn tư tưởng khá nặng nề về bằng cấp. Nhiều phụ huynh chỉ muốn con em tiếp tục học THPT và lên đại học, cao đẳng chứ không muốn vào học GDTX - GDNN, trung cấp mặc dù học lực của con em yếu kém.
Tạo đột phá trong đào tạo nghề
Mô hình 9 được hiểu là mô hình đào tạo song hành học nghề và học văn hóa sau khi học sinh tốt nghiệp lớp 9, và có thể tiếp tục liên thông lên bậc cao đẳng, rút ngắn thời gian đào tạo. Mô hình này đã triển khai thành công ở nhiều nước trên thế giới. Điển hình là tại Đức với mô hình đào tạo kép và tại Nhật Bản với mô hình đào tạo KOSEN, mô hình đào tạo cho người học tốt nghiệp tương đương THCS ở Việt Nam rất thành công, đem lại giá trị về nguồn nhân lực đáp ứng nền kinh tế của đất nước họ. Qua tìm hiểu, mô hình KOSEN Nhật Bản cho phép người học tốt nghiệp có thể học liên thông lên đại học và học xây dựng chương trình đào tạo theo hình nêm: Chương trình đào tạo kết hợp giữa hai phần văn hóa và chuyên môn, phần văn hóa giảm dần và phần chuyên môn tăng dần theo từng năm.
Tại Việt Nam, 9 được hiểu theo Luật Giáo dục nghề nghiệp và theo thông lệ quốc tế. Đó là, học hết lớp 9, học sinh có quyền lựa chọn học nghề ngắn hạn trong thời gian sáu tháng đến một năm và các em tham gia thị trường lao động ngay tại các trung tâm dạy nghề. Các em không phải làm những công việc độc hại và được pháp luật cho phép độ tuổi từ 16 đến 18. Lựa chọn thứ hai là học sinh tham gia chương trình đào tạo 9 2, 9 3, 9 4, 9 5 để theo tám bậc của khung trình độ quốc gia. Sau hai năm, các em lấy bằng trung cấp, và có thể học liên thông lên cao đẳng, đại học... Hiện nay, mô hình 9 đã được triển khai tại một số cơ sở GDNN và được xem là hướng đi hiệu quả trong tháo gỡ nút thắt phân luồng THPT tại Việt Nam.
Là một trong năm trường triển khai hiệu quả mô hình đào tạo KOSEN của Nhật Bản (mô hình 9 ) từ năm 2016, tuy nhiên, Hiệu trưởng Trường cao đẳng Công nghiệp và Thương mại (Vĩnh Phúc) Nguyễn Tiến Tùng chia sẻ, hiện trường đang dạy nhiều đối tượng học sinh tốt nghiệp THCS vào học tại các trung tâm GDTX - GDNN của địa phương. Các em đang phải học bảy môn văn hóa từ lớp 10 đến 12 để thi tốt nghiệp THPT và thêm chương trình trung cấp của trường. Thực tế, các em cần bằng THPT để có nguyện vọng học lên bậc cao hơn (cao đẳng, đại học) theo quy định.
Do đó, mô hình này nếu được áp dụng rộng rãi ở Việt Nam thì chúng ta cần thay đổi một số quy định trong Luật Giáo dục, cho phép học sinh tốt nghiệp THCS học thẳng lên cao đẳng qua chương trình đào tạo được phê duyệt (bảo đảm kiến thức văn hóa và chuyên môn); và bằng tốt nghiệp cao đẳng được liên thông lên trình độ cao hơn. Nếu làm được việc này mới hy vọng mang lại thành công trong việc phân luồng học sinh.
Thời gian qua, Trường cao đẳng Nghề số 1 Bộ Quốc phòng (Thái Nguyên) đã thực hiện tốt công tác phân luồng học sinh. Mỗi năm trường cung cấp ra thị trường lao động khoảng hơn 2.000 kỹ thuật viên lành nghề từ các hệ sơ cấp, trung cấp, đến cao đẳng, đáp ứng nguồn lao động trong tỉnh cũng như nhiều địa phương khác. Trong thời gian học tập, học sinh từ hệ trung cấp, cao đẳng đều được đi thực hành từ 3 đến 6 tháng/năm, được doanh nghiệp trả lương ngay lúc đi thực tập... Ngoài ra, do quy định của pháp luật về độ tuổi lao động, học sinh học hệ trung cấp dưới 18 tuổi được nhà trường bố trí các xưởng thực hành, sản xuất theo tiêu chuẩn của doanh nghiệp, để các em được làm các đơn hàng, mang lại kinh nghiệm, thu nhập chính đáng ngay trong thời gian học. Hiệu trưởng Trường cao đẳng Nghề số 1 Bộ Quốc phòng, Đại tá, TS Phạm Văn Hòa kiến nghị, để thực hiện được mục tiêu đưa mô hình 9 vào đào tạo tại các cơ sở GDNN thì cần gỡ nhiều vấn đề còn tồn tại. Trong đó, yêu cầu đầu tiên phải là chất lượng của các cơ sở GDNN. Các trường cần bảo đảm được năng lực quản lý học sinh, sinh viên, bảo đảm cơ sở vật chất, chuẩn giáo viên, cam kết đầu ra cho người học...
Ngày 14-5-2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 522 phê duyệt Đề án "Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai đoạn 2018 - 2025". Đề án nhằm tạo bước đột phá về chất lượng giáo dục hướng nghiệp trong giáo dục phổ thông, góp phần chuyển biến mạnh mẽ công tác phân luồng học sinh sau THCS và THPT vào học các trình độ giáo dục nghề nghiệp phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và địa phương, đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực quốc gia, hội nhập khu vực và quốc tế.
Để đạt được các mục tiêu trong đề án trên, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục GDNN Trương Anh Dũng cho rằng, cần có giải pháp gỡ các "nút thắt" trong vấn đề phân luồng cũng như liên thông các bậc học hiện nay. Việc đưa phân luồng vào luật là hết sức cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tuyển sinh và đào tạo của các bậc học sau phổ thông, trong đó có GDNN. Để thực hiện chỉ tiêu phân luồng sau trung học theo Quyết định số 522/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, mới đây Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành Thông tư số 07/2019/TT-BLĐTBXH (ngày 7-3-2019), với nhiều điểm mới, tạo điều kiện cho các trường cao đẳng, trung cấp tuyển sinh năm 2019. Thông tư này tạo điều kiện thuận lợi nhất cho thí sinh có nhu cầu đăng ký vào học GDNN. Học sinh tốt nghiệp THCS có nguyện vọng học trình độ cao đẳng cũng có thể đăng ký dự tuyển. Tuy nhiên, các đối tượng này, trong quá trình học phải hoàn thiện chương trình văn hóa trung học phổ thông theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Đến năm 2025, phấn đấu ít nhất 40% học sinh tốt nghiệp THCS tiếp tục học tập tại các cơ sở GDNN đào tạo trình độ sơ cấp, trung cấp; đối với các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn đạt ít nhất 30%; ít nhất 45% học sinh tốt nghiệp THPT tiếp tục học tập tại các cơ sở GDNN đào tạo trình độ cao đẳng; đối với các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn đạt ít nhất 35%...
(Theo Đề án "Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai đoạn 2018 - 2025")
Theo Nhân dân
Văn bằng đại học đào tạo tại chức, từ xa, liên thông có giá trị như bằng đại học chính quy từ 1/7 năm nay Đó là một trong những quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học 2018 đã được Quốc hội thông qua ngày 19/11/2018 với nhiều điểm mới quan trọng, Luật sẽ có hiệu lực từ 01/7/2019. Theo Luật Giáo dục đại học (2012), tại Điều 38 quy định Văn bằng giáo dục đại học được...