“Chính sách học phí thấp đang trợ cấp ngược cho người giàu”
Đó là ý kiến của TS. Nguyễn Trường Giang (Vụ hành chính sự nghiệp – Bộ Tài chính) về những bất cập của cơ chế tài chính hiện hành trong hội thảo “Đổi mới cơ chế tài chính đối với giáo dục đại học” diễn ra hôm 17/11 tại Hà Nội.
Bất cập do đầu tư bình quân, cào bằng cho Giáo dục Đại học
Theo TS. Nguyễn Trường Giang, việc phân bổ ngân sách nhà nước cho các cơ sở đào tạo công lập hiện mang tính bình quân, cào bằng, chưa gắn với nhu cầu đào tạo, cơ cấu ngành nghề và chất lượng đào tạo.
“Hiện nay, việc giao dự toán ngân sách nhà nước cho các cơ sở giáo dục đại học công lập được thực hiện theo cơ chế khoán, việc giao khoán được căn cứ vào khả năng của ngân sách, dự đoán được giao năm trước để làm căn cứ giao khoán năm sau”, TS Giang nói.
“Tuy nhiên, hàng năm có sự thay đổi nhiều về số lượng, cơ cấu đào tạo, giá cả… nhưng việc giao khoán không gắn với số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành nghề và quy mô đào tạo. Hơn nữa, căn cứ được giao khoán dựa trên dự toán được tính toán theo định mức phân bổ ngân sách nhà nước quy định tại công văn số 562/HCSN (ngày 3/3/1998) của Bộ Tài chính, đến nay cũng đã không còn phù hợp với thực tế”.
Ảnh minh họa
Ông Giang cũng nhấn mạnh: “Việc duy trì mức học phí thấp dưới mức chi phí đào tạo dẫn đến việc hỗ trợ của Nhà nước mang tính chất bình quân, cào bằng đối với tất cả các đối tượng học sinh, sinh viên, không có sự phân biệt giữa học sinh gia đình nghèo và gia đình trung lưu. Sinh viên các gia đình có thu nhập cao chiếm tỉ lệ không nhỏ, điều này dẫn đến một thực tế là chính sách học phí thấp của chúng ta lại đang trợ cấp ngược cho người giàu”.
Đồng ý với quan điểm này, PGS.TS Đinh Văn Nhã, phó chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – ngân sách của Quốc hội, cho rằng việc đầu tư bình quân cho sinh viên các ngành học khác nhau với một khoản kinh phí như nhau từ ngân sách nhà nước là điểm bất cập hiện nay. “Với những ngành nhu cầu xã hội cần nhiều, người học thích học sẽ phải chịu một cơ chế khác so với những ngành học Nhà nước cần nhưng người học chưa mặn mà”.
Ông Nhã đề xuất: “Sắp tới, đối với sinh viên sư phạm, có thể sẽ không miễn giảm học phí như trước, mà được cho vay như với sinh viên khác. Nếu ra trường, người tốt nghiệp làm trong ngành giáo dục thì được miễn giảm phần trả, nếu công tác ngoài ngành, sẽ có cơ chế bồi hoàn lại kinh phí đào tạo”.
Cần phải tính đủ chi phí đào tạo
Video đang HOT
Theo TS Nguyễn Trường Giang, đối với giáo dục đại học, việc tính đủ học phí là cần thiết, phù hợp với thông lệ quốc tế về giáo dục đại học. Học đại học để có nghề, tạo thu nhập kiếm sống nuôi sống bản thân và gia đình nên người học phải đóng đủ học phí.
“Trong nền kinh tế thị trường, chúng ta phải chấp nhận quy luật là tiề.n nào, của đó, dịch vụ chất lượng cao, dịch vụ xã hội có nhu cầu cao thì giá phải cao và ngược lại”, ông Giang nêu quan điểm.
Ý kiến này cũng nhận được sự ủng hộ của bà Nguyễn Thị Minh, Thứ trưởng Bộ Tài chính. “Lương giáo viên tăng nhưng chất lượng giáo dục không tăng kịp với tốc độ đó, bởi lẽ lương tăng nhưng phần ngân sách đầu tư cho giáo dục tăng không nhiều. Theo quan điểm của tôi, giáo dục là một dịch vụ và phải tính đủ giá dịch vụ”.
“Theo định hướng dự kiến đổi mới tới đây, chi phí cho giáo dục Đại học (GD ĐH) phải được tính đủ. Chi phí cho một sinh viên y khoa chẳng hạn, tính đủ là 50 triệu đồng/năm; sinh viên kinh tế là 30-40 triệu đồng. Đối với những ngành có khả năng phân hóa cao, người học có nhu cầu thì ngoài phần ngân sách hỗ trợ được bao nhiêu, nhà nước sẽ cho phép các trường được trợ thu để đảm bảo đủ chi phí đào tạo”, bà Minh nói.
Tự chủ tài chính phải gắn với trách nhiệm xã hội và chất lượng
Ủng hộ việc từng bước trao quyền tự chủ tài chính cho các cơ sở giáo dục đại học nhưng PGS.TS Phùng Xuân Nhạ, Phó Giám đốc ĐHQG Hà Nội, cho rằng cơ chế tự chủ tài chính hiện tại vẫn còn nhiều bất cập.
“Mặc dù là tự chủ về tài chính nhưng các trường tự chủ không được tự xác định mức học phí, vẫn phải tuân thủ mức trần học phí, vốn rất thấp được quy định tại Nghị định 49/2010/NĐ-CP của Chính phủ. Bên cạnh đó, các trường không được tự xác định chỉ tiêu tuyển sinh phù hợp với năng lực và tình hình thực tiễn của mình.
Với những trường tự chủ một phần, nhà nước còn thực hiện cơ chế khoán ngân sách cho từng trường, với mức khoán chưa gắn với nhiệm vụ được giao, chất lượng đào tạo và sản phẩm đầu ra”, ông Nhạ dẫn giải những bất cập chính liên quan tới nguồn thu trong cơ chế tự chủ hiện hành.
Để giải quyết những bất cập trên, theo PGS. TS Phùng Xuân Nhạ, nhà nước cần tạo một cơ chế đầy đủ hơn cho các trường. Đi kèm với việc giao quyền tự chủ là việc tăng cường trách nhiệm giải trình của các các trường, tăng cường giám sát của nhà nước và cộng đồng với các trường qua các tiêu chí cụ thể và minh bạch.
“Việc chi tiêu của các cơ sở giáo dục phải minh bạch và phải công bố công khai. Cơ quan nhà nước phải tăng cường giám sát. Đồng thời phải có chế tài cụ thể cho việc tự chủ thì những người thực hiện mới yên tâm triển khai”, ông Nhạ nói.
Ông Nguyễn Đắc Hưng, Vụ trưởng Vụ giáo dục Ban Tuyên giáo Trung ương, tán đồng: “Tự chủ phải đi kèm với trách nhiệm giải trình, người đứng đầu phải có trách nhiệm với sản phẩm đầu ra của mình, phải có cơ chế giám sát cam kết xã hội về chất lượng đào tạo”.
Mạnh Hải
Theo dân trí
Giáo dục trong nước làm khổ sinh viên khi đi du học
"Đừng để sinh viên phải đọc những giáo trình mỏng lét và coi đó là kiến thức chuẩn mực. Một quyển sách viết ra bây giờ không phải để dùng trong phạm vi một trường, một quốc gia" - PGS.TS. Lưu Tiến Hiệp khẳng định.
Cuối tuần qua, tại ĐH Quốc gia TP.HCM đã diễn ra Hội thảo Giáo dục Đại học Việt Nam hội nhập quốc tế. Tham dự hội thảo có nhiều bậc học giả người Việt ở trong và ngoài nước, như PGS.TS Phan Thanh Bình, Giám đốc ĐH Quốc gia TP.HCM, TS Võ Văn Sen - hiệu trưởng ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, GS Nguyễn Văn Tuấn - Viện nghiên cứu Y khoa Garvan, Australia, PGS.TS Lưu Tuấn Hiệp - đại diện UPC Sydney - Australia tại Việt Nam.
Bên cạnh ý kiến của các chuyên gia về giáo dục, PGS.TS Lưu Tuấn Hiệp đã có những ý kiến thẳng thắn về bất cập của đào tạo trong nước dẫn đến việc sinh viên gặp trở ngại khi hòa nhập vào môi trường giáo dục thế giới.
Vất vả để được công nhận
Trình độ Toán, Lý, Hóa của học sinh tốt nghiệp phổ thông ở Việt Nam là không hề dở, nhưng khi qua Mỹ, Úc học thường phải tốn một năm học lại. Nguyên nhân là nhiều nước không công nhận bằng tú tài của Việt Nam. Một số trường hợp được học thẳng là vì sinh viên xuất sắc hoặc phải tự mình "đấu tranh" với nhà trường. Đề xuất của hội thảo là Bộ nên có sự giải thích và thương lượng để các trường đại học nước ngoài hiểu biết hơn về giáo dục Việt Nam, tránh gây "oan uổn" và tốn thời gian, công sức của sinh viên.
Hội thảo Giáo dục Việt Nam hội nhập Quốc tế bàn về cách đưa giáo dục đại học ra "biển lớn", trong đó làm thế nào để sinh viên Việt Nam có thể hội nhập khi đi du học là một yếu tố quan trọng.
Khi chuyển tiếp học đại học, nhiều trường ở nước ngoài có chính sách công nhận các môn sinh viên đã học tại trường đại học Việt Nam để miễn học lại, nhưng quá trình chuyển điểm này dồn hết lên vai sinh viên. Thay vì cung cấp đề cương môn học, bảng điểm đúng chuẩn bằng tiếng Anh, trường đã để sinh viên tự lo tất cả.
"Sinh viên phải tự dịch sang tiếng Anh, xin xác nhận bảng điểm dịch trường cũng thoái thác nhiệm vụ này. Trong khi ở nơi khác, sinh viên có thể dùng website, đề cương môn học để xin miễn môn học một cách dễ dàng", PSG.TS Hiệp cho biết.
Rào cản về ngôn ngữ và thang điểm
Ngoài ra, Việt Nam cũng chưa chuẩn hóa việc dịch các thuật ngữ nước ngoài sang tiếng Việt, làm khó cho sinh viên trong việc chọn trường và xin học. PGS.TS Hiệp lấy ví dụ từ college, ở Mỹ từ này chỉ trường đại học thành viên, nhưng qua Việt Nam bị chuyển thành... cao đẳng, hạ thấp từ này xuống và gây nhẫm lẫn cho phụ huynh, sinh viên. Hay như cách dịch bằng cấp, trường là nơi cấp bằng được dịch sang tiếng Anh, nhưng cách dịch của trường không phải để các đối tác nước ngoài hiểu mà lại dùng tiếng Anh theo phong cách người Việt.
PST.TS Lưu Tiến Hiệp: "Học sinh Việt Nam không hề dở Toán, Lý, Hóa, nhưng phải học lại một năm dự bị đại học. Bộ có thể làm gì trước điều này?".
Chưa hết, những từ như chuyên tu, tại chức, chính quy được dịch ra một cách khiên cưỡng, bởi ở nước ngoài người ta hầu như không phân biệt các khái niệm này.
"Đây là việc làm tai hại vì rất khó thiết lập sự tương đương của bằng cấp Việt Nam với một trường khác, ảnh hưởng bất lợi cho sinh viên và cả trường".
Cách tính điểm GPA theo thang 4 cũng làm sinh viên Việt Nam thua thiệt so với sinh viên các nước khác, đặc biệt trong việc xin học bổng. Khi quy đổi từ thang điểm 10 sang thang 4, các trường ở Việt Nam thường chọn cận dưới, dẫn đến GPA thường bị thấp hơn so với các nước bạn.
Nên dịch giáo trình quốc tế để học
Một cản trở khác của sinh viên Việt Nam ra nước ngoài học tập là giáo trình. Phát biểu tại hội thảo, PGS.TS Lưu Tiến Hiệp đề cập đến "sở thích" cổ vũ cho việc tự viết giáo trình ở bậc đại học Việt Nam. "Mỗi lần tôi dự các hội nghị liên quan đến giáo dục, lãnh đạo khi đọc diễn văn luôn có thói quen nhắc nhở giảng viên viết giáo trình như một điệp khúc. Điều này nên chấm dứt. Ngoài ra cũng không nên đưa chỉ tiêu giảng viên viết giáo trình trong đán.h giá, trong thi đua", ông Hiệp phát biểu.
Theo PGS.TS Lưu Thế Hiệp, sách đại học hội nhập quốc tế sâu sắc: "Một quyển sách viết ra bây giờ không phải để dùng trong phạm vi một trường, một quốc gia. Nền giáo dục của Úc không tồi, nhưng một giáo sư Úc muốn viết sách, nhà xuất bản phải nghĩ ngay là sách này có được các trường trên thế giới sử dụng không". Trừ một số rất nhỏ, ông Hiệp cho rằng khả năng của giảng viên Việt Nam trong giai đoạn này chưa thể viết sách giáo khoa đại học được: "Đừng để sinh viên phải đọc những giáo trình mỏng lét, những bài giảng bằng powerpoint và coi đó là kiến thức chuẩn mực".
Vì thế, trừ một số lĩnh vực cho khoa học xã hội, các trường đại học Việt Nam nên sử dụng các giáo trình đạt chuẩn quốc tế để giảng dạy. Việc sử dụng các giáo trình quốc tế sẽ giúp sinh viên Việt Nam hội nhập tiếp thu với chuẩn giáo dục quốc tế, dễ dàng hòa nhập khi đi du học - đồng thời cũng nâng chuẩn của các trường đại học Việt Nam. "Khi tiếng Anh của sinh viên còn yếu thì biện pháp dịch cần được khuyến khích", theo PGS.TS Hiệp.
PHƯƠNG THẢO
Theo Infonet
Nhìn nhận lại môn lịch sử - Một nửa sự thật về nhà Hồ Từ mong muốn của bạn đọc, Báo Thanh Niên cùng các nhà sử học và sư phạm đã rà soát lại các bộ sách giáo khoa (SGK) môn lịch sử bậc phổ thông và phát hiện một số thiếu sót đáng tiếc về kiến thức, hoặc những nhận định chưa thật thỏa đáng, mang dấu ấn của tư duy cũ. Điểm lại những...