Chín tài năng trẻ đạt giải Quả cầu vàng năm 2017
Tám tiến sĩ và một sinh viên có thành tích xuất sắc trong lĩnh vực khoa học công nghệ đã được chọn để trao giải Quả cầu vàng.
PGS trẻ nhất Việt Nam Trần Xuân Bách (giữa) là một trong chín người nhận giải thưởng khoa học công nghệ thanh niên Quả cầu vàng 2017. Ảnh: Dương Tâm
Ngày 27/12, Trung ương Đoàn phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức lễ trao giải thưởng khoa học công nghệ thanh niên Quả cầu vàng và phần thưởng nữ sinh viên tiêu biểu trong lĩnh vực kỹ thuật năm 2017.
Vượt qua 58 hồ sơ, chín tài năng trẻ có thành tích xuất sắc ở năm lĩnh vực được trao giải, bao gồm công nghệ thông tin và truyền thông; công nghệ y – dược; công nghệ sinh học; công nghệ môi trường và công nghệ vật liệu mới.
Tám trong số những người đạt giải là tiến sĩ; người còn lại là Phạm Văn Hạnh (sinh năm 1997), sinh viên Đại học Công nghệ, Đại học quốc gia Hà Nội – đây cũng là cá nhân trẻ tuổi nhất tham gia xét giải.
Mỗi cá nhân đạt giải được nhận cúp Quả cầu vàng, giấy chứng nhận, huy hiệu “Tuổi trẻ sáng tạo” của Ban chấp hành Trung ương Đoàn kèm tiền thưởng 20 triệu đồng.
Cùng với giải thưởng Quả cầu vàng năm 2017, Trung ương Đoàn tổ chức xét và trao giải cho 20 nữ sinh tiêu biểu trong lĩnh vực kỹ thuật. Phần thưởng được triển khai ở bốn ngành học mà sinh viên nữ còn hạn chế và cần được khuyến khích, bao gồm công nghệ thông tin, điện, điện tử và cơ khí.
Là một trong chín chủ nhân Quả cầu vàng, TS Vũ Bích Ngọc – nghiên cứu viên Phòng thí nghiệm nghiên cứu và ứng dụng tế bào gốc (Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia TP HCM), , trong 10 năm nghiên cứu khoa học, chị đã nhận được nhiều kết quả hơn mong đợi nhờ sự hỗ trợ từ Bộ Khoa học và Công nghệ. “Tôi hy vọng các cấp lãnh đạo tiếp tục tạo điều kiện để những người trẻ như tôi có thể đóng góp nhiều hơn cho sự nghiệp khoa học công nghệ của đất nước”, chị Ngọc nói.
Video đang HOT
Thứ trưởng Trần Văn Tùng khẳng định vai trò của thanh niên trong việc phát triển khoa học công nghệ. Ảnh: Dương Tâm
Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Trần Văn Tùng nói Bộ luôn xác định rõ vai trò quan trọng của thanh niên trong lĩnh vực nêu trên. Theo ông, các nhà khoa học “giờ đây không cần phải bận tậm nhiều trong việc làm các chứng từ, các cơ chế quyết toán tài chính, không phải mất nhiều thời gian cho thủ tục hành chính mà có thể toàn tâm toàn ý nghiên cứu”.
Giải thưởng khoa học công nghệ thanh niên Quả cầu vàng được trao thường niên, bắt đầu từ năm 2003.
Chín cá nhân đạt giải Quả cầu vàng năm 2017 bao gồm:
- Lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông: TS Hà Minh Hoàng (Giảng viên Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội) và Phạm Văn Hạnh (Sinh viên Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội).
- Lĩnh vực công nghệ môi trường: TS Nguyễn Thị Ánh Dương (Nghiên cứu viên tại Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam) và TS Nguyễn Thị Thủy (Giảng viên Đại học Công nghiệp thực phẩm TP HCM).
- Lĩnh vực công nghệ y – dược: PGS.TS Trần Xuân Bách (Giảng viên cao cấp Đại học Y Hà Nội) và TS Hoàng Văn Tổng (Giảng viên Học viện Quân y).
- Lĩnh vực công nghệ sinh học: TS Võ Thanh Sang (Đại học Nguyễn Tất Thành) và TS Vũ Bích Ngọc (Nghiên cứu viên tại Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học quốc gia TP HCM).
- Lĩnh vực công nghệ vật liệu mới: TS Phạm Thị Năm (Nghiên cứu viên Viện Kỹ thuật nhiệt đới, Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam).
Theo VNE
Hàng nghìn tỷ đồng và "giấc mơ" tiến sĩ
Từ năm 2000 đến nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD và ĐT) được giao chủ trì thực hiện nhiều đề án có kinh phí từ hàng trăm tỷ đồng đến hơn 10 nghìn tỷ đồng để đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có trình độ tiến sĩ.
Tuy nhiên, có những đề án nguồn kinh phí rất lớn, nhưng quá trình thực hiện đã không đạt mục tiêu đề ra; chất lượng đào tạo tiến sĩ còn nhiều bất cập. Mới đây, Bộ GD và ĐT xây dựng dự thảo đề án nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, giảng viên đại học và cao đẳng (ĐH, CĐ) sư phạm, giai đoạn từ năm 2018 đến 2025 và tầm nhìn 2030, đặt mục tiêu đào tạo 9.000 tiến sĩ với nguồn kinh phí 12 nghìn tỷ đồng khiến dư luận băn khoăn.
Giờ thực hành của nghiên cứu sinh tại một trường đại học (ảnh có tính minh họa). Ảnh: THANH GIANG
Bài 1 : Mục tiêu lớn, kinh phí nhiều, kết quả thấp
Đề án Đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường ĐH, CĐ giai đoạn 2010 - 2020 theo Quyết định 911/QĐ-TTg ngày 17-6-2010 của Thủ tướng Chính phủ (Đề án 911) có tổng kinh phí lớn nhất 14 nghìn tỷ đồng với mục tiêu đào tạo 23 nghìn tiến sĩ. Tuy nhiên, đề án triển khai đến hết năm 2016 đã bộc lộ hàng loạt hạn chế, không đạt mục tiêu đề ra, Bộ GD và ĐT đã dừng tuyển sinh từ năm nay.
Mười năm và mục tiêu 23 nghìn tiến sĩ
Theo tìm hiểu của chúng tôi, các chương trình, đề án có thực hiện nhiệm vụ đào tạo tiến sĩ được triển khai dưới nhiều hình thức khác nhau như: Đào tạo học bổng dạng hiệp định; lồng ghép đào tạo tiến sĩ trong đề án đào tạo nhân lực nói chung; đề án đào tạo riêng về tiến sĩ...; điển hình như các học bổng dạng hiệp định đào tạo ở nước ngoài tại LB Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hung-ga-ri... Đề án Đào tạo cán bộ khoa học, kỹ thuật tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước, theo Quyết định số 322/2000/QĐ-TTg (Đề án 322). Năm 2005, đề án nêu trên được đổi tên thành Đề án Đào tạo cán bộ tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước theo Quyết định 356/2005/QĐ-TTg (Đề án 356).
Đáng chú ý, năm 2010, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án 911 chỉ dành riêng đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường ĐH, CĐ, giao Bộ GD và ĐT chủ trì. Đề án có mục tiêu là trong giai đoạn 2010-2020 đào tạo khoảng 10 nghìn tiến sĩ ở nước ngoài tại các trường ĐH có uy tín trên thế giới (từ năm 2010 đến 2013, mỗi năm tuyển chọn từ 800 đến 1.200 và từ năm 2014 trở đi, bình quân mỗi năm tuyển chọn từ 1.300 đến 1.500 nghiên cứu sinh); đào tạo khoảng 3.000 tiến sĩ theo hình thức phối hợp, liên kết đào tạo giữa các trường ĐH trong nước và trường ĐH nước ngoài; đào tạo khoảng 10 nghìn tiến sĩ ở trong nước (từ năm 2010 đến 2015, mỗi năm tuyển chọn 1.200 đến 1.500 và từ năm 2016 bình quân mỗi năm tuyển chọn 1.500 nghiên cứu sinh)... Đối tượng tuyển chọn của đề án là giảng viên các trường ĐH, CĐ; nghiên cứu viên của các viện nghiên cứu khoa học; sinh viên mới tốt nghiệp ĐH hoặc thạc sĩ đạt từ loại khá trở lên; những người có năng lực và trình độ chuyên môn giỏi đang làm việc tại các đơn vị ngoài nhà trường, có nguyện vọng và cam kết trở thành giảng viên ĐH, CĐ sau khi được đào tạo (không quá 45 tuổi). Trong đó, ưu tiên đào tạo trình độ tiến sĩ đối với giảng viên các trường ĐH, nhất là các trường trọng điểm, xuất sắc... Tổng kinh phí thực hiện Đề án 911 dự kiến là 14 nghìn tỷ đồng; trong đó, đào tạo toàn phần ở nước ngoài chiếm khoảng 64%, đào tạo phối hợp chiếm khoảng 14%; đào tạo trong nước chiếm khoảng 20%, đào tạo ngoại ngữ và các kỹ năng khác ở trong nước chiếm khoảng 2%. Nguồn kinh phí thực hiện đề án gồm: Ngân sách nhà nước (94%); từ các dự án nước ngoài và nguồn xã hội hóa (5%); các nguồn kinh phí khác như học phí, đóng góp của các nhà trường (1%).
Đề án 911 ra đời với kỳ vọng tăng cường công tác đào tạo tiến sĩ cả về quy mô và chất lượng, nhằm nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, nghiên cứu, giảng dạy và quản lý ĐH tiên tiến của đội ngũ giảng viên; nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo tiến sĩ trong nước, tranh thủ và phát huy hợp tác quốc tế, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học của nước ta.
Kết quả thấp so với mục tiêu
Mặc dù Nhà nước tạo nhiều điều kiện, cấp tổng kinh phí lớn cho đào tạo tiến sĩ nhưng thực tế quá trình triển khai có nhiều hạn chế, kết quả còn xa so với kỳ vọng. Đến năm 2012, Bộ GD và ĐT mới có quyết định về tuyển sinh và ban hành thông tư đào tạo tiến sĩ theo Đề án 911. Bộ GD và ĐT cũng xác định, từ năm 2012 đến 2016 tổng chỉ tiêu đào tạo của đề án là 12.800 tiến sĩ (gồm 5.700 chỉ tiêu đào tạo trong nước, 5.800 chỉ tiêu đào tạo ở nước ngoài và 1.300 chỉ tiêu đào tạo phối hợp). Tuy nhiên, kết quả đạt được tính đến hết năm 2016 khá thấp. Cụ thể, giai đoạn 2012-2016, mới tuyển được 2.062 nghiên cứu sinh (NCS) đào tạo trong nước, đạt 36% chỉ tiêu. Trong đó, có 703 NCS đến thời hạn kết thúc thời gian nghiên cứu nhưng mới chỉ có 165 NCS hoàn thành khóa học, bảo vệ thành công luận án đúng thời hạn (đạt tỷ lệ hơn 23%); còn lại, có tới 538 NCS (gần 77%) bảo vệ luận án chậm hoặc chưa bảo vệ luận án. Trong số NCS được tuyển có 143 người bỏ học hoặc chuyển sang nghiên cứu đại trà.
Đối với công tác đào tạo phối hợp, chỉ có một NCS đang học tập nghiên cứu tại Pháp, trong số 1.300 chỉ tiêu của giai đoạn 2012-2016. Trong khi đó, từ năm 2012 đến hết năm 2016, có 2.926 người trúng tuyển đào tạo ở nước ngoài nhưng chỉ có 1.961 người (đạt gần 34% chỉ tiêu) được làm thủ tục đi học. Điều đáng nói, số tuyển sinh đào tạo ở nước ngoài nêu trên không phải hoàn toàn do Đề án 911 thực hiện, mà có 655 người thuộc danh sách do Đề án 356 tuyển vượt chỉ tiêu theo quy định chuyển sang. Vì vậy, kết quả tuyển sinh đào tạo ở nước ngoài của Đề án 911 thực chất chỉ có 1.306 NCS (gần 23% so với chỉ tiêu). Trong đó, có 549 NCS hoàn thành khóa học, bảo vệ thành công luận án (tốt nghiệp đúng thời hạn là 387 người, còn lại tốt nghiệp chậm từ một đến hai năm); 186 NCS hết thời hạn nghiên cứu nhưng chưa tốt nghiệp. Ngoài ra, có 45 NCS ở nước ngoài bỏ học.
Vấn đề sử dụng kinh phí triển khai Đề án 911 cũng có nhiều hạn chế. Báo cáo của Kiểm toán Nhà nước ban hành tháng 11 vừa qua cho thấy, tổng kinh phí đề nghị quyết toán của Đề án 911 giai đoạn 2012-2016 là hơn 1.400 tỷ đồng. Tuy nhiên, quá trình triển khai, kinh phí phân bổ qua các năm chưa phù hợp với nhiệm vụ chi, phải hủy dự toán hoặc phải chuyển năm sau để chi, làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn kinh phí. Bộ GD và ĐT chưa ban hành văn bản riêng, cụ thể về công tác kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng kinh phí đề án. Kiểm toán Nhà nước đã kiến nghị về xử lý tài chính đối với Bộ GD và ĐT, thu hồi nộp ngân sách Nhà nước gồm: Học phí của NCS tại Cục Hợp tác quốc tế (từ năm 2012 đến 30-7-2017) hơn 50 tỷ đồng; các khoản chi sai chế độ, không đúng quy định hơn 424 triệu đồng; thu hồi kinh phí do NCS bỏ học hơn 207 triệu đồng. Ngoài ra, Bộ GD và ĐT phải hủy dự toán nguồn kinh phí đề án hơn 2,8 tỷ đồng và giảm kinh phí quyết toán năm 2016 hơn 48 triệu đồng. Đối với các bộ, ngành kiểm tra đối chiếu tổng số xử lý tài chính là hơn 6,3 tỷ đồng.
Theo Kiểm toán Nhà nước, nguyên nhân khiến Đề án 911 không đạt mục tiêu đề ra được xác định là do các cơ chế, chính sách bất cập chậm được tháo gỡ, mức kinh phí hỗ trợ của đề án thấp, các nội dung chi và điều kiện để hỗ trợ kinh phí nhiều vướng mắc, trong khi yêu cầu trách nhiệm ràng buộc của NCS cao. Định mức hỗ trợ cho NCS thấp và có thêm quy định lưu học sinh phải nộp học phí khóa học 52 triệu đồng là điều bất cập. Một số chuyên gia giáo dục cho rằng, chương trình đào tạo tiến sĩ của Đề án 911 chưa có sự khác biệt so với các chương trình đào tạo đại trà (về giáo trình và thời gian thực tập tại nước ngoài, hình thức đào tạo, bằng tốt nghiệp). Đề án xây dựng không sát thực tế dẫn đến không thực hiện được mục tiêu. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Nhã, nguyên Trưởng ban Đào tạo (ĐH Quốc gia Hà Nội) cho rằng, quá trình triển khai Đề án 911 có sự cứng nhắc, thiếu linh hoạt, đặt ra tiêu chuẩn chưa phù hợp; những người thực hiện không tâm huyết, trách nhiệm với việc tìm kiếm lựa chọn người giỏi để tuyển sinh cho nên không đạt kết quả. "Cùng là đào tạo tiến sĩ nhưng có sự khập khiễng bởi tiêu chí xét tuyển của các đề án quá cao, trong khi đào tạo đại trà còn nhiều hạn chế, thậm chí có cả "tiến sĩ giấy", dẫn đến các đề án chưa thật sự thu hút nhiều người theo học" - Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Nhã nhìn nhận.
Theo Nhandan.com.vn
Lúa trồng trên nước biển đã cho thu hoạch ở Trung Quốc Các nhà khoa học tại Trung Quốc đã phát triển thành công giống lúa có thể sinh trưởng trong môi trường nước mặn. Lúa nước mặn được trồng thử nghiệm ở Trung Quốc. Nhóm các nhà khoa học tại Trung tâm nghiên cứu và phát triển lúa nước mặn Saline-Alkali ở thành phố Thanh Đảo, Trung Quốc đã tạo ra giống lúa mới...