Châm cứu: coi chừng châm xong cấp cứu
Châm cứu là phương pháp điều trị tốt trong chữa một số bệnh. Tuy nhiên, nếu thực hành châm cứu không cẩn thận, không đúng cách thì phương pháp này có thể gây rủi ro, tai biến.
Ảnh: Lê Kiên
Nhiễ.m trùn.g má.u vì kim châm
Ngày 23/2, thông tin từ khoa hồi sức tích cực bệnh viện 175, TP.HCM cho biết đang điều trị bệnh nhân nam T.V.S., 38 tuổ.i, ngụ ở Bình Phước, nhập viện trong tình trạng bị nhiễm khuẩn huyết và tổn thương gan nặng. Người nhà anh S. cho biết, anh S. bị đau lưng từ lâu, dịp tết vừa rồi xuất hiện thêm tình trạng nhức mỏi chân trái. Nhiều lần đi phòng mạch tư chích thuố.c giảm đau nhưng không khỏi, anh S. đã nghe theo chỉ dẫn của một người quen đi châm cứu ở một người chuyên châm cứu gần nhà. Khoảng hai giờ sau khi được châm cứu bằng kim, anh S. đau nhức dữ dội, chóng mặt, sốt cao, sức khoẻ biểu hiện nguy kịch… nên người nhà vội chuyển anh vào bệnh viện 175 cấp cứu.
Kết quả thăm khám, xét nghiệm phát hiện anh S. bị nhiễ.m trùn.g má.u kéo theo tổn thương gan nặng, sốt cao và suy kiệt do viêm xương, viêm tuỷ xương tại đầu trên xương đùi trái, nhận định do châm cứu gây ra. Sau hơn mười ngày điều trị tích cực, dùng kháng sinh mạnh, truyền má.u, huyết tương và nâng đỡ thể trạng… hiện sức khoẻ anh S. đã cải thiện.
Phải đúng cách, đúng bệnh
Theo ThS.BS Trần Văn Năm, phó viện trưởng viện Y dược học dân tộc TP.HCM, châm cứu là tên gọi của hai hình thức khác nhau: châm (dùng kim xuyên qua da của một vùng cơ thể nhất định, gọi là huyệt), và cứu (dùng lá khô của cây ngải cứu đốt lên hơ nóng trên huyệt). BS Năm nói: “Không chỉ người Việt ưa chuộng cách điều trị không bằng thuố.c này mà có cả khách du lịch hoặc chuyên gia ngoại quốc khi đến Việt Nam. Điều đó chứng tỏ châm cứu có tác dụng trị bệnh thật sự”.
BS Năm cho biết hiện phổ biến nhiều trường phái châm cứu như: thể châm (châm các huyệt trên cơ thể); nhĩ châm (châm các huyệt trên loa tai); diện châm (châm hoặc ấn các huyệt trên mặt); túc châm, thủ châm, tỵ châm…; châm tê, trường châm, mãng châm, chôn chỉ… Mỗi loại châm cứu đều có một hiệu quả nhất định trên một số dạng bệnh lý khác nhau.
Nghiên cứu của y học hiện đại đã ghi nhận châm cứu giúp phục hồi hệ kinh – mạch và tăng khả năng phòng vệ của cơ thể (sức đề kháng) nên có thể phòng và trị được bệnh. Châm cứu áp dụng điều trị giảm đau trong các loại bệnh lý như: thoái hoá khớp, bệnh đĩa đệm cột sống mức độ nhẹ, đau sau chấn thương, đau đầu migrain, đau do co thắt cơ trơn…; phục hồi liệt (di chứng tai biến mạch má.u não, sau chấn thương, liệt thần kinh số 7 ngoại biên…); rối loạn giấc ngủ, căng thẳng (stress); tăng cường dinh dưỡng mô, cơ, da và tổ chức dưới da (dùng trong thẩm mỹ); tăng sức đề kháng, hỗ trợ cắt cơn thiếu thuố.c (thuố.c l.á, thuố.c gây nghiệ.n…) “Để châm cứu có hiệu quả tốt nhất, người thầy thuố.c phải được đào tạo tốt, tự tin, có sức khoẻ, tập trung khi thao tác, bảo đảm nguyên tắc vô trùng y cụ. Đối với người bệnh cũng phải tin tưởng, tâm trạng thoải mái, không quá lo sợ, không ăn quá no, quá đói”, BS Năm nói.
Ai không nên châm cứu?
TS.DS Lê Thị Hồng Anh, thầy thuố.c ưu tú, Trung ương hội Đông y Việt Nam cho biết mặc dù châm cứu tỏ ra rất hiệu quả trong điều trị một số loại bệnh, nhưng nếu không cẩn thận dễ gây ra những rủi ro. Nếu bác sĩ châm thẳng vào dây thần kinh, có thể dẫn đến liệt, teo cơ… Giống như kim tiêm, kim châm cứu cũng có thể lây bệnh nếu dùng chung mà không được hấp, tiệt trùng đúng cách.
Khi châm kim, nếu người bệnh có cảm giác rát buốt, bác sĩ phải rút kim ra ngay lập tức bởi nếu châm sai vào những huyệt nguy hiểm, châm quá sâu, có thể gây t.ử von.g. “Không phải ai cũng có thể chữa bệnh bằng phương pháp châm cứu. Nếu thiếu hiểu biết và chưa có kinh nghiệm thì châm cứu có thể gây nhiều nguy hiểm. Để châm cứu chữa bệnh đạt hiệu quả, người bệnh chỉ nên đến bệnh viện, viện châm cứu đã có xác nhận của bộ Y tế”, DS Anh lưu ý.
Theo BS Năm, châm cứu có tác dụng tốt trong các trường hợp bệnh lý có căn nguyên rối loạn chức năng, các bệnh lý gây đau do thần kinh, co thắt cơ vân – cơ trơn, do liệt vận động, một số bệnh lý viêm không do vi trùng mạn tính. Những trường hợp sau cần cẩn thận hoặc chống chỉ định châm cứu: người bệnh căng thẳng, sợ kim; tránh một số huyệt nhạy cảm khi người bệnh có thai; da chai, sẹo hoặc đang viêm nhiễm; tránh các vùng có mạch má.u lớn, bệnh lý rối loạn đông má.u, hoặc đang dùng thuố.c kháng đông má.u… “Người bệnh không hợp tác cũng không nên châm cứu vì kết quả sẽ kém”, BS Năm nói.
Video đang HOT
Theo VNE
Nặng ngực, khó thở, coi chừng phình động mạch chủ
Khi động mạch chủ bị phình, bệnh nhân sẽ có các dấu hiệu khó thở, đau ngực..., có thể dẫn đến t.ử von.g nhanh chóng do mất má.u.
Động mạch chủ là đường dẫn má.u lớn nhất của cơ thể, xuất phát từ tim và chia nhánh đem má.u giàu oxy đến các cơ quan. Phình động mạch chủ là sự suy yếu một đoạn thành động mạch chủ dẫn đến giãn bất thường với đường kính> 50% đường kính bình thường.
Một ca phẫu thuật phình động mạch chủ tại BV ĐH Y dược TP HCM. Ảnh: T.A.
Dấu hiệu và triệu chứng nghi ngờ phình động mạch chủ
Túi phình động mạch chủ thường phát triển chậm và không có triệu chứng nên khó phát hiện sớm. Khi túi phình đủ lớn, bệnh nhân có thể có các dấu hiệu và triệu chứng sau:
Đối với phình động mạch chủ ngực, các dấu hiệu nổi bật là:
- Nặng ngực hoặc đau ngực.
- Đau lưng.
- Khàn tiếng kéo dài.
- Khó nuốt.
- Khó thở.
- Ho ra má.u.
Đối với phình động mạch chủ bụng, đau bụng âm ỉ là triệu chứng chủ yếu. Nguy cơ lớn nhất của phình động mạch chủ là vỡ túi phình, đây là biến chứng rất nặng có thể dẫn đến t.ử von.g nhanh chóng do mất má.u. Các dấu hiệu gợi ý vỡ phình động mạch chủ ngực bao gồm:
- Đau ngực dữ dội xuất hiện đột ngột, cơn đau lan ra sau lưng đối với phình động mạch chủ ngực; đau bụng dữ dội đối với phình động mạch chủ bụng.
- Khó thở nhiều.
- Da xanh nhợt.
- Ngất.
- Tụt huyết áp.
Khi có những dấu hiệu trên cần đưa bệnh nhân đến cấp cứu tại cơ sở y tế gần nhất để có những xử trí thích hợp.
Bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ sau có thể mắc bệnh:
- Tuổ.i: Phình động mạch chủ thường xảy ra ở bệnh nhân> 65 tuổ.i.
- Hút thuố.c l.á: Thuố.c l.á là yếu tố nguy cơ cao đối với bệnh phình động mạch chủ, thời gian hút càng lâu và số lượng hút càng lớn thì nguy cơ càng cao.
- Tăng huyết áp: Tăng huyết áp làm tăng áp lực lên thành động mạch chủ, làm tăng nguy cơ xuất hiện túi phình.
- Rối loạn lipid má.u: Tăng lipid má.u sẽ dẫn đến hình thành các mảng xơ vữa trong thành động mạch chủ và gây suy yếu thành mạch.
- Gia đình có người bị bệnh phình động mạch chủ.
Phình động mạch chủ thường được phát hiện thông qua các xét nghiệm thường quy hoặc tình cờ phát hiện khi chẩn đoán một bệnh khác. Các xét nghiệm thường được sử dụng để chẩn đoán phình động mạch chủ ngực là Xquang tim phổi, siêu âm tim, CT Scan ngực có sử dụng thuố.c cản quang.
Mục tiêu của điều trị bệnh phình động mạch chủ là ngăn ngừa biến chứng vỡ túi phình. Tùy thuộc vào kích thước, hình dạng và tốc độ phát triển của túi phình mà bác sĩ quyết định phương pháp điều trị từ theo dõi và uống thuố.c đến phẫu thuật cấp cứu. Các bác sĩ sẽ lựa chọn điều trị nội khoa (uống thuố.c và theo dõi) hoặc điều trị phẫu thuật.
Nếu túi phình động mạch chủ ngực có kích thước nhỏ, bác sĩ sẽ đề nghị tiếp tục theo dõi và uống thuố.c cũng như điều chỉnh lối sống để điều trị các yếu tố nguy cơ của bệnh. Thông thường, bệnh nhân sẽ được kiểm tra định kỳ kích thước túi phình mỗi 6 tháng để đán.h giá sự tăng trưởng và nguy cơ vỡ.
Nếu kích thước túi phình động mạch chủ> 5,5 cm trên CT Scan, bệnh nhân sẽ được chỉ định điều trị phẫu thuật để ngăn ngừa nguy cơ vỡ túi phình. Dựa trên tình trạng của người bệnh, bác sĩ có thể chọn lựa một trong hai phương pháp sau:
- Phẫu thuật mở: Bệnh nhân được mổ hở để thay đoạn phình động mạch chủ bằng một ống nhân tạo. Đây là một phẫu thuật phức tạp, cần sử dụng máy tim phổi ngoài cơ thể trong một số trường hợp. Bệnh nhân cần thời gian dài khoảng trên 1 tháng để hồi phục hoàn toàn.
- Đặt giá đỡ (stent graft) động mạch chủ: Đây là loại phẫu thuật mới, ít xâm lấn và thời gian phẫu thuật ngắn hơn. Bác sĩ sẽ mổ một đường nhỏ ở đùi, từ đó đưa dụng cụ lên qua mạch má.u để đến vị trí túi phình, sau đó sẽ bung giá đỡ để má.u không còn lưu thông vào túi phình nữa, từ đó loại bỏ nguy cơ vỡ. Phương pháp này ít đau, ít biến chứng và thời gian hồi phục ngắn hơn so với phẫu thuật mở, với khoảng 2 tuần.
Lời khuyên sau khi được chẩn đoán phình động mạch chủ:
Nếu được chẩn đoán phình động mạch chủ và được bác sĩ quyết định tiếp tục theo dõi, bệnh nhân cần tránh các hoạt động sau:
- Nâng nhấc các vật nặng hoặc hoạt động thể thao đòi hỏi gắng sức nhiều.
- Tránh stress về tinh thần vì stress có thể làm tăng huyết áp.
- Ngưng hút thuố.c l.á.
- Tập thể dục nhẹ đều đặn.
- Tuân thủ điều trị tăng huyết áp (thay đổi sinh hoạt và sử dụng thuố.c) để giữ huyết áp ở mức bình thường.
- Tuân thủ điều trị rối loạn mỡ trong má.u.
Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Hoàng Định _Trưởng Khoa Phẫu thuật Tim mạch BV ĐH Y dược TP HCM
Theo VNE
Hàng trăm kim châm cứu bằng vàng trong đầu gối Kiểm tra hình ảnh X-quang đầu gối của một phụ nữ 65 tuổ.i ở Hàn Quốc, bác sĩ phát hiện hàng trăm chiếc kim châm cứu bằng vàng nhỏ li ti trong mô. Theo Livescience, cụ bà 65 tuổ.i người Hàn Quốc đến bệnh viện vì đau khớp gối dữ dội. Trước đó, bà được chẩn đoán viêm khớp mãn tính. Căn bệnh...