Cần Thơ định hướng cho phát triển kinh tế tập thể năm 2022
UBND thành phố Cần Thơ vừa ban hành kế hoạch phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn thành phố năm 2022, nhằm hướng đến mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế, thu hút ngày càng nhiều thành viên tham gia và nâng cao thu nhập cho thành viên.
Đồng thời, đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng GRDP của thành phố; giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo một cách bền vững.
Sản xuất theo quy trình VietGAP, vú sữa của HTX Trường Khương A, huyện Phong Điền có giá cao. Ảnh minh họa: Thanh Liêm/TTXVN
Cụ thể, thành phố phấn đấu thành lập mới 20 hợp tác xã, từ 50-60 tổ hợp tác; trong đó, tập trung xây dựng từ 3 hợp tác xã có quy mô lớn trong lĩnh vực nông nghiệp trong năm 2022. Cùng đó, phát triển thêm 1.000 thành viên hợp tác xã và từ 500-700 thành viên tổ hợp tác mới, nâng tổng số thành viên hợp tác xã lên 14.000 thành viên và 59.000 thành viên tổ hợp tác.
Ước tổng doanh thu hợp tác xã trong năm 2022 khoảng 2.600 tỷ đồng, doanh thu bình quân hợp tác xã là 4,2 tỷ đồng/năm; thu nhập bình quân của thành viên là 65 triệu đồng/năm, thu nhập bình quân của người lao động là 55 triệu đồng/năm, tỷ lệ cán bộ đạt trình độ sơ cấp, trung cấp là 48%, trình độ cao đẳng và đại học đạt 24%…
Để đạt được các mục tiêu nói trên, thành phố Cần Thơ đã đề ra định hướng phát triển kinh tế hợp tác quan trọng nhất trong năm 2022. Đó là, tập trung khắc phục những yếu kém, củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã, tổ hợp tác trên địa bàn thành phố ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề.
Cùng đó, phát huy tốt tiềm năng, lợi thế, thế mạnh liên doanh, liên kết, giữa các hợp tác xã, tổ hợp tác với nhau, giữa hợp tác xã, tổ hợp tác với các thành phần kinh tế khác. Đồng thời, liên kết chặt chẽ giữa phát triển sản xuất gắn với thị trường, chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
Cùng với sự hỗ trợ ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, công nghệ 4.0 cho kinh tế tập thể, thành phố Cần Thơ cũng sẽ triển khai nhóm giải pháp để triển khai thực hiện kế hoạch. Đó là hoàn thiện các thể chế chính sách; tuyên truyền tập huấn các chính sách văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành và nâng cao năng lực nguồn nhân lực hợp tác xã; tổ chức triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ, ưu đãi phát triển hợp tác xã.
Video đang HOT
Bên cạnh đó, nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã; tăng cường công tác quản lý nhà nước về kinh tế tập thể; huy động các lực lượng xã hội, các tổ chức đoàn thể trong nước và quốc tế tham gia thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể và hỗ trợ khu vực kinh tế tập thể do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19…
Đến hết tháng 6/2021, số hợp tác xã đang còn hoạt động trên địa bàn thành phố Cần Thơ là 226 hợp tác xã; trong đó, có 125 hợp tác xã nông nghiệp, 10 hợp tác xã công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, 31 hợp tác xã vận tải, 20 hợp tác xã thương mại dịch vụ, 33 hợp tác xã xây dựng và 7 quỹ tín dụng.
Số hợp tác xã ngưng hoạt động, tạm ngưng hoạt động hoạt động trong 6 tháng đầu năm là 66 hợp tác xã; trong đó, có 20 hợp tác xã đang làm thủ tục giải thể. Doanh thu bình quân của hợp tác xã năm 2021 là 3,7 tỷ đồng/năm, không tăng so với năm 2020 do ảnh hưởng của tình hình dịch COVID -19.
Giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, tận dụng cơ hội phát triển kinh tế - xã hội
Biến đổi khí hậu là một trong những nguyên nhân tác động trực tiếp tới mục tiêu xóa đói giảm nghèo và phát triển bền vững.
Tại Việt Nam, sự gia tăng của các hiện tượng thời tiết cực đoan dẫn đến gia tăng rủi ro cho các vùng, các lĩnh vực và các đối tượng dễ bị tổn thương, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân và xóa sạch thành quả nhiều năm về giảm nghèo của nhiều vùng. Do đó, thích ứng với biến đổi khí hậu phải gắn với phát triển bền vững, tăng cường khả năng chống chịu của cộng đồng, tận dụng các cơ hội do biến đổi khí hậu mang lại.
Những ngôi nhà thích ứng với biến đổi khí hậu ở vùng sông nước Cà Mau. Ảnh: Kim Há/TTXVN
Nâng cao năng lực thích ứng của cộng đồng
Theo phóng viên Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) tại các địa phương phản ánh, trước những diễn biến phức tạp của biến đổi khí hậu, tình trạng hạn hán xâm nhập mặn ngày càng ảnh hưởng đến cây trồng. Thực hiện theo phương châm "Thuận thiên" để phát triển kinh tế, nhiều hộ dân đã lựa chọn chuyển đổi cây trồng, vật nuôi phù hợp để phát triển kinh tế và có nhiều lợi thế để thích ứng.
Sau 5 năm chuyển đổi một phần đất trồng lúa kém hiệu quả để trồng cỏ nuôi bò, ông Trần Văn Tâm, xã Mỹ Nhơn, huyện Ba Tri (Bến Tre) vẫn an tâm với việc lựa chọn chuyển đổi chăn nuôi để phát triển kinh tế của gia đình.
Ông Tâm cho biết, sau đợt hạn hán, xâm nhập mặn năm 2016, nhận thấy thời gian tới, ảnh hưởng biết đổi khí hậu sẽ ngày càng khốc liệt hơn, ông Tâm đã bắt đầu suy nghĩ về việc chuyển đổi sang chăn nuôi để có hướng đi mới trong phát triển kinh tế.
Ông Tâm nhận định, nếu chỉ sản xuất lúa, không mạnh dạn chuyển đổi thì kinh tế gia đình sẽ bấp bênh, vì mỗi năm chỉ làm 1 hoặc 2 vụ lúa, chưa kể nước mặn ảnh hưởng đến năng suất lúa. Ngoài ra, con bò thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu hiện nay, do khả năng chịu mặn tốt, nguồn thức ăn phong phú nên được nhiều gia đình lựa chọn để chăn nuôi phát triển kinh tế.
Ra ở riêng với 2.000m2 đất sản xuất do bố mẹ cho, gia đình anh Nguyễn Văn Phúc, xã Phước Ngãi, huyện Ba Tri (Bến Tre) thiếu trước hụt sau do nguồn thu nhập không ổn định. Nhận thấy nuôi dê thuận lợi, nguồn thức ăn dễ tìm, anh Phúc đầu tư nuôi 2 dê nái sinh sản. Sau ba năm đàn dê phát triển, anh mạnh dạn chuyển đổi 2.000m2 nuôi dê và nuôi thêm 2 con bò sinh sản. Hiện nay, thu nhập từ đàn dê, đàn bò ổn định hơn so với trồng lúa trước đây.
Anh Phúc chia sẻ, ảnh hưởng từ hạn hán, xâm nhập mặn hiện nay làm cho cây trồng phát triển không thuận lợi. Riêng chăn nuôi con bò, con dê có khả năng chống chịu tốt với thời tiết khắc nghiệt. Bên cạnh đó, chuyển đổi đất trồng cây tạp sang trồng cỏ nuôi bò, dê mang lại hiệu quả cao hơn, cho thu nhập ổn định hơn. Trước đây 2.000m2 nếu trồng lúa mỗi năm chỉ thu 15-20 triệu đồng, nhưng chuyển sang trồng cỏ nuôi bò, dê cho thu nhập cao hơn từ 3-4 lần so với trồng lúa.
Theo ông Trần Quang Thái, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Bến Tre, trong điều kiện ảnh hưởng của biến đổi khí hậu hiện nay, con bò, dê có khả năng chống chịu tốt với hạn hán, xâm nhập mặn, dễ nuôi, có giá trị kinh tế cao. Do vậy, các vật nuôi trên được người dân lựa chọn để phát triển kinh tế.
Tác động của biến đổi khí hậu đã gây ra tình trạng diễn biến thiên tai ngày càng bất thường và cực đoan; lũ quét, sạt lở đất, triều cường xâm thực ngày càng sâu vào đất liền; thiệt hại lớn về người, tài sản, cơ sở hạ tầng. Năm 2020, tỉnh Cà Mau bị ảnh hưởng nặng nề bởi biến đổi khí hậu, thiên tai gây ra. Hạn hán kéo dài trong mùa khô, kéo theo tình hình sạt lở, sụt lún đất nghiêm trọng. 14 cơn bão và 1 cơn áp thấp nhiệt đới xuất hiện trong năm tuy không ảnh hưởng trực tiếp, nhưng lại xảy ra tình trạng mưa to trên diện rộng kết hợp triều cường dâng cao làm ngập sâu nhiều nơi, kéo dài nhiều ngày. Trong năm qua có 10 đợt triều cường dâng cao với mực nước ở nhiều trạm đo vượt qua mực nước lịch sử. Toàn tỉnh có gần 514 km đường giao thông bị ngập lụt; 1.419 vị trí thuộc nhiều tuyến đường giao thông (chủ yếu là giao thông nông thôn) với chiều dài hơn 46 km bị sụt lún và sạt lở đất ven sông; gần 10km rừng phòng hộ biển Tây Cà Mau bị sạt lở nghiêm trọng... Ước tính tổng thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trên địa bàn tỉnh khoảng 1.125 tỷ đồng. Trước tình hình thiên tai nguy cấp nêu trên, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau đã liên tiếp ban hành hai quyết định công bố tình huống khẩn cấp sạt lở đê biển Tây.
Theo số liệu thống kê của Ban Chỉ huy Phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh Thừa Thiên - Huế, tỉnh có diện tích vùng đồi núi chiếm hơn 75% trên tổng diện tích toàn tỉnh. Qua khảo sát, toàn tỉnh có 48 điểm nguy cơ xảy ra sạt lở tập trung ở các khu vực gò đồi, núi của các huyện Nam Đông, A Lưới, Phú Lộc, Phong Điền và thị xã Hương Thủy, Hương Trà. Với đặc thù địa hình này, tai biến địa chất sạt lở đất, lũ quét, lũ bùn đá thường xảy ra ở vùng địa hình núi thấp có độ cao từ 250-750m, độ dốc từ 15-25%, chiếm khoảng 36% diện tích toàn tỉnh. Qua rà soát, huyện miền núi Nam Đông có 10 vị trí nguy cơ sạt lở đất, lũ quét, khi có mưa lớn kéo dài ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của hơn 230 hộ dân. Trong đó, 5 vị trí có nguy cơ cao xảy ra sạt lở đất, gồm tổ dân phố 2, thị trấn Khe Tre; thôn Ria Hố, xã Thượng Lộ; thôn 5, xã Thượng Long; thôn Đa Phú, xã Hương Phú và thôn 2, xã Thượng Nhật.
Trong tương lai, nếu mực nước biển dâng 100 cm và không có các giải pháp ứng phó, khoảng 16,8% diện tích đồng bằng sông Hồng, 1,5% diện tích các tỉnh ven biển miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận, 17,8% diện tích TP Hồ Chí Minh và 38,9% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long có nguy cơ bị ngập dẫn đến mất đất canh tác nông nghiệp, nước tưới cho nông nghiệp, nước phục vụ mục đích sinh hoạt và công nghiệp bị nhiễm mặn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân.
Các giải pháp ứng phó
Nhằm giảm thiểu tính dễ bị tổn thương và rủi ro trước những tác động của biến đổi khí hậu, tại Hội nghị lần thứ 21 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP21), Việt Nam đã phê duyệt Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu. Theo đó, các bên tham gia Thỏa thuận có trách nhiệm xây dựng và triển khai Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu. Ngày 20/7/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 tại Quyết định số 1055/QĐ-TTg.
Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường) Tăng Thế Cường cho biết, Kế hoạch đặt ra mục tiêu nhằm giảm thiểu tính dễ bị tổn thương và rủi ro trước những tác động của biến đổi khí hậu thông qua việc tăng cường khả năng chống chịu, năng lực thích ứng của cộng đồng, các thành phần kinh tế và hệ sinh thái; thúc đẩy việc lồng ghép thích ứng với biến đổi khí hậu vào hệ thống chiến lược, quy hoạch.
Các nhóm nhiệm vụ, giải pháp được đề ra phân theo 3 nhóm, tập trung vào 7 nhóm, lĩnh vực: Tăng cường công tác quản lý nhà nước và nguồn lực; nông nghiệp; phòng chống thiên tai; môi trường và đa dạng sinh học; tài nguyên nước; cơ sở hạ tầng; các lĩnh vực khác, gồm sức khoẻ cộng đồng, lao động-xã hội, văn hóa-thể thao-du lịch. Các lĩnh vực được lựa chọn và sắp xếp theo thứ tự ưu tiên căn cứ vào mức độ tác động của biến đổi khí hậu và mục tiêu của kế hoạch thích ứng quốc gia; không phân chia nhiệm vụ theo bộ, ngành để tránh sự trùng lặp, chồng lấn trong các lĩnh vực.
Cụ thể, 3 nhóm nhiệm vụ gồm: Một là, nâng cao hiệu quả thích ứng với biến đổi khí hậu, thông qua tăng cường quản lý nhà nước, thúc đẩy lồng ghép thích ứng với biến đổi khí hậu vào hệ thống chiến lược, quy hoạch, với các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể được đề ra. Trong đó, có việc giám sát và đánh giá nhằm nâng cao hiệu quả thích ứng, định kỳ cập nhật kịch bản biến đổi khí hậu, xây dựng các kịch bản về tác động, tổn thất và thiệt hại, thiết lập và vận hành cơ sở dữ liệu quốc gia và công cụ hỗ trợ quản lý, xây dựng các cơ chế, chính sách huy động và phân bổ nguồn lực về tài chính...
Hai là, tăng cường khả năng chống chịu và nâng cao năng lực thích ứng của cộng đồng, các thành phần kinh tế và hệ sinh thái thông qua đầu tư cho các hành động thích ứng, khoa học và công nghệ, nâng cao nhận thức, sẵn sàng điều chỉnh trước những thay đổi của khí hậu với các nhiệm vụ giải pháp cụ thể.
Ba là, giảm nhẹ rủi ro thiên tai và giảm thiểu thiệt hại, sẵn sàng ứng phó với thiên tai và khí hậu cực đoan gia tăng do biến đổi khí hậu với 5 nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, trong đó có việc cải thiện hệ thống quản lý rủi ro thiên tai, thúc đẩy giảm nhẹ rủi ro thiên tai, chú trọng giải pháp quản lý thiên tai dựa vào cộng đồng, phát huy tri thức địa phương trong phòng tránh thiên tai, triển khai các giải pháp phòng, chống thiên tai kịp thời và hiệu quả, chống sạt lở bờ sông, bờ biển...
Các địa phương đẩy mạnh học tập và làm theo Bác Thời gian qua, nhiều địa phương tại các tỉnh Gia Lai, Lạng Sơn, Lai Châu đã thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI, XII). Qua đó, đã tạo chuyển biến...