Cần nhiệm kỳ cho chức danh giáo sư, phó giáo sư
Vần đề về tăng đột biến số lượng giáo sư (GS), phó giáo sư (PGS) đang tiếp tục gây nhiều tranh luận. Trong đó, nhiều chuyên gia giáo dục thẳng thắn chỉ ra rằng, tiêu chuẩn chức danh GS, PGS hiện tại đang quá thấp. Bộ GDĐT cần “trả” quyền phong GS, PGS cho các trường. Việc phong chức danh GS, PGS cũng cần có nhiệm kỳ…
Anh Trần Xuân Bách (32 tuổi) là người trẻ nhất trong 638 nhà giáo được công nhận phó giáo sư năm 2016. Ảnh: A.C
Định biên GS, PGS theo lĩnh vực
Năm 2017, 1.226 người được công nhận đạt tiêu chuẩn GS, PGS, tăng gần 60% so với năm trước. Đây cũng là con số cao kỷ lục trong 41 năm qua, thậm chí lớn hơn tổng số hai năm 2015, 2016. Nhiều nguyên nhân được chỉ ra để lý giải về sự tăng đột biến này nhưng nguyên nhân đáng chú ý và nghi ngại nhất chính là “chuyến vét” trong năm cuối áp dụng Quyết định 174/2008/QĐ-TTg.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, tiêu chuẩn để công nhận chức danh GS, PGS theo Quyết định 174 là quá thấp, thậm chí còn dễ dàng hơn cả quy định bảo vệ luận án tiến sĩ. Cụ thể, trong 4 tiêu chuẩn công nhận chức danh PGS không có tiêu chuẩn nào yêu cầu ứng viên phải có bài báo khoa học đăng trên tạp chí ISI/Scopus.
Trong 5 tiêu chuẩn công nhận chức danh GS cũng không yêu cầu phải có bài báo khoa học đăng trên tạp chí ISI/Scopus. Các ứng viên chỉ cần “có đủ công trình khoa học quy đổi theo quy định, trong đó có ít nhất 50% số công trình khoa học quy đổi từ các bài báo khoa học và 25% số công trình khoa học được quy đổi được thực hiện trong 3 năm cuối tính đến thời điểm hết hạn nộp hồ sơ”.
Thế nhưng, đáng nói, việc tính điểm bao gồm cả các tạp chí ISI/Scopus và tạp chí trong nước, tạp chí nội bộ trường với mức điểm quy đổi chênh lệch rất ít, từ 1,5 đến 1 điểm. Mức chênh lệch này không phù hợp với độ khó khi đăng bài trên tạp chí trong nước và tạp chí ISI/Scopus.
Trong khi đó, tiêu chuẩn để được đăng ký đánh giá luận án tiến sĩ theo quy chế do Bộ GDĐT ban hành năm 2017 đã yêu cầu nghiên cứu sinh phải công bố tối thiểu hai bài báo về kết quả nghiên cứu của luận án. Trong đó, một bài đăng trên tạp chí ISI/Scopus hoặc hai báo cáo bằng tiếng nước ngoài trong kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện hoặc 2 bài báo đăng trên tạp chí khoa học nước ngoài có phản biện.
Nhận định về sự bùng nổ số lượng chức danh GS, PGS, ông Trần Văn Tớp – Phó Hiệu trưởng Đại học Bách khoa Hà Nội – : Nhìn nhận một cách khách quan, số lượng GS, PGS tăng đột biến là do năm nay thời gian nộp hồ sơ kéo dài nên có một số ứng viên đã kết thúc làm đề tài, có nhiều thời gian viết sách để tính điểm công trình. Bên cạnh đó, vì có “manh nha” sửa đổi tiêu chuẩn chức danh GS, PGS theo hướng siết chặt hơn nên nhiều ứng viên cũng có tư tưởng là sẽ cố gắng để hoàn thành hồ sơ trong năm nay.
Lý giải nguyên nhân Việt Nam có số lượng nhiều GS, PGS hơn các nước, ông Tớp chỉ ra nguyên nhân, hiện ở các nước trên thế giới có quy định định biên GS, PGS, tức là mỗi lĩnh vực nghiên cứu của một trường, phòng thí nghiệm… chỉ có một người là GS, PGS và đứng đầu trong lĩnh vực nghiên cứu đó.
Video đang HOT
Ví dụ như Trường Đại học Bách khoa Hà Nội có 50 bộ môn thì chỉ có 50 GS, PGS và là người đứng đầu trong lĩnh vực nghiên cứu của bộ môn đó. Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta thực hiện theo tiêu chuẩn, tức là người nào đáp ứng đủ các tiêu chuẩn đã đề ra được phong hàm GS, PGS. Vì vậy, trong một bộ môn giảng dạy của một trường đại học có thể có từ 3-7 GS, PGS. Những người này thực hiện công việc nghiên cứu nhưng không phải là người đứng đầu bộ môn, đứng đầu lĩnh vực nghiên cứu.
Ông Tớp cũng cho rằng, ở Việt Nam việc bổ nhiệm GS, PGS liên quan đến hệ số lương còn chưa thể trở thành một người đứng đầu trong một lĩnh vực nghiên cứu nào đó. Bởi những người có chức danh GS, PGS sẽ có bậc lương cao hơn so với chuyên viên chính.
Còn theo TS Lê Viết Khuyến – nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học, Bộ GDĐT: “Đúng là nhiều người tỏ ra lo ngại với số lượng GS, PGS tăng 60% so với những năm trước. Nhiều lý do được đưa ra do tính khách quan, do thời gian dài, do số lượng đầu vào lớn… nhưng cá nhân tôi cho rằng đó là con số không bình thường. Hoạt động giảng dạy hay chất lượng các bài khoa học của chúng ta thế nào trong năm qua thì chúng ta là người rõ hơn ai hết. Thành tích khoa học đóng góp cho đất nước thì còn quá hạn chế”.
Không dành cho những người háo danh
TS Lê Viết Khuyến cũng thẳng thắn chỉ rõ rằng, hiện nay một bộ phận cán bộ, giảng viên “dùng mọi cách” để được phong hàm GS, PGS là bằng chứng của việc háo danh và giải quyết “khâu oai”. Bộ GDĐT nên trả việc công nhận GS, PGS cho các trường dựa trên bộ tiêu chuẩn do Bộ GDĐT đề ra. Đương nhiên, để mọi người tâm phục, khẩu phục chắc chắn các trường sẽ đưa ra bộ tiêu chí cao hơn quy định tiêu chuẩn tối thiểu của bộ.
Lý giải quan điểm của mình, ông Khuyến cho biết: Với các nước trên thế giới, phần lớn GS đều gắn với chức danh của trường, không có chuyện GS là doanh nhân, là nhà chính trị. Vì thế, chức danh GS, PGS chỉ nên dành cho những người trực tiếp giảng dạy, có biên chế cụ thể tại trường. Người làm công tác quản lý, hoạt động trong doanh nghiệp, không có công trình nghiên cứu, không tham gia giảng dạy không nên tham gia vào chức danh này. Khi không còn đóng góp cho nghiên cứu khoa học thì chức danh đó cũng được bỏ.
TS Khuyến cũng thẳng thắn chỉ rõ, việc xét hồ sơ hiện nay được chuyển từ cấp cơ sở lên đến hội đồng trung ương. Các trường đào tạo quyết định bổ nhiệm GS trên cơ sở những người được hội đồng Nhà nước công nhận. Điều này nghe có vẻ hợp lý nhưng khi đã đặt ra danh hiệu GS, PGS cấp Nhà nước thì khó có trường nào từ chối được.
GS, PGS cũng phải có nhiệm kỳ, thường là 5 năm xét 1 lần. Trong khi ở mình GS là suốt đời, nên có người xong GS rồi là chẳng chịu làm việc nữa. Ở nước ta, thời kỳ trước đây cũng chỉ phong GS, PGS cho những người đang trực tiếp làm công tác đào tạo. Cũng có cán bộ quản lý nhưng phải là cán bộ quản lý cơ sở đào tạo hoặc cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp quản lý đào tạo. Về sau này, quy chế mở rộng đối tượng ứng viên GS, PGS nên mới có chuyện bộ trưởng làm GS, PGS.
Theo Laodong.vn
Giáo sư, phó giáo sư phải đáp ứng tiêu chuẩn nào?
Tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư hiện nay không quy định phải có công bố khoa học quốc tế.
Giáo sư, phó giáo sư ngoài tiêu chuẩn chung, còn có tiêu riêng, trong đó phải có bằng tiến sĩ, giao tiếp được bằng tiếng Anh. Ảnh minh họa.
Việc bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư được quy định trong quyết định số 174 năm 2008 của Thủ tướng. Theo Điều 8, giáo sư, phó giáo sư phải đáp ứng tiêu chuẩn chung là có bằng tiến sĩ từ đủ 36 tháng trở lên kể từ ngày có quyết định cấp bằng tính đến thời điểm hết hạn nộp hồ sơ. Chuyên ngành được đào tạo phải phù hợp với ngành chuyên môn của chức danh đăng ký xét đạt tiêu chuẩn.
Nếu có bằng tiến sĩ nhưng chưa đủ 36 tháng tính đến thời điểm hết hạn nộp hồ sơ, ứng viên phải có số công trình khoa học quy đổi gấp hai lần tiêu chuẩn chung, gồm cả bài báo khoa học và các công trình thực hiện trong ba năm cuối.
Ứng viên chức danh giáo sư, phó giáo sư cần có đủ số công trình khoa học quy đổi theo quy định của Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo. Trong đó có ít nhất 50% số công trình khoa học quy đổi từ các bài báo khoa học và 25% số công trình khoa học quy đổi được thực hiện trong ba năm cuối tính đến thời điểm hết hạn nộp hồ sơ. Những người này phải sử dụng thành thạo một ngoại ngữ phục vụ cho công tác chuyên môn và giao tiếp được bằng tiếng Anh.
Các ứng viên đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư khi có số phiếu tín nhiệm của tổng số thành viên Hội đồng chức danh giáo sư từ 2/3 trở lên với cấp cơ sở; từ 3/4 với cấp ngành, liên ngành và từ 2/3 với cấp Nhà nước.
Tiêu chuẩn chức danh phó giáo sư
Ngoài đáp ứng được các tiêu chuẩn chung, ứng viên chức danh phó giáo sư cần đáp ứng những yêu cầu sau:
Thứ nhất, có ít nhất sáu năm thâm niên làm nhiệm vụ giáo dục, giảng dạy từ trình độ đại học trở lên. Trong đó ba năm cuối tính đến thời điểm hết hạn nộp hồ sơ đang làm nhiệm vụ giáo dục, giảng dạy trình độ đại học hoặc cao hơn.
Nhà giáo có trên 10 năm công tác liên tục ở cơ sở giáo dục đại học tính đến thời điểm hết hạn nộp hồ sơ, nếu trong ba năm cuối có thời gian đi thực tập nâng cao trình độ hoặc tu nghiệp không quá 12 tháng thì thời gian đi thực tập này không tính là gián đoạn của ba năm cuối.
Nhà giáo chưa đủ sáu năm thâm niên làm nhiệm vụ giáo dục, giảng dạy từ trình độ đại học trở lên thì phải có số công trình khoa học quy đổi ít nhất gấp hai lần tiêu chuẩn quy định và ba năm thâm niên cuối tính đến thời điểm hết hạn nộp hồ sơ đang đào tạo trình độ đại học hoặc cao hơn.
Nhà giáo có bằng tiến sĩ khoa học theo quy định của Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo thì cần có ít nhất một năm thâm niên cuối tính đến thời điểm hết hạn nộp hồ sơ đang trực tiếp đào tạo trình độ đại học hoặc cao hơn.
Thứ hai, ứng viên phải hướng dẫn chính ít nhất 2 học viên cao học bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ, hoặc hướng dẫn (chính hoặc phụ) một nghiên cứu sinh đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ.
Thứ ba, ứng viên phải chủ trì ít nhất hai đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, hoặc một đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, hoặc đề tài cấp cao hơn đã nghiệm thu với kết quả từ đạt yêu cầu trở lên.
Tiêu chuẩn chức danh giáo sư
Thứ nhất, ứng viên chức danh giáo sư phải là phó giáo sư đã được bổ nhiệm từ 3 năm trở lên tính đến thời điểm hết hạn nộp hồ sơ.
Thứ hai, ứng viên phải hướng dẫn chính ít nhất 2 nghiên cứu sinh bảo vệ thành công luận án tiến sĩ.
Thứ ba, ứng viên phải biên soạn sách sử dụng trong đào tạo từ trình độ đại học trở lên phù hợp với chuyên ngành xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư. Sách này đã được xuất bản, nộp lưu chiểu trước thời điểm hết hạn nộp hồ sơ.
Cuối cùng, ứng viên cần chủ trì ít nhất một đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ hoặc đề tài cấp cao hơn đã nghiệm thu với kết quả từ đạt yêu cầu trở lên.
Tháng 1/2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố dự thảo Quy định tiêu chuẩn, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư. So với quy định hiện hành, tiêu chuẩn mới nhiều và cao hơn, đặc biệt ứng viên phải có công bố khoa học quốc tế.
Cụ thể, đến năm 2019, ứng viên chức danh giáo sư thuộc nhóm ngành Khoa học Tự nhiên, Kỹ thuật và Công nghệ phải là tác giả chính và đã công bố được ít nhất 2 bài báo khoa học trên tạp chí khoa học quốc tế thuộc hệ thống ISI, Scopus; hoặc có ít nhất một bài báo khoa học thuộc hệ thống ISI, Scopus và một quyển hoặc chương sách phục vụ đào tạo được xuất bản bởi một nhà xuất bản có uy tín trên thế giới; hoặc ít nhất một bài báo khoa học thuộc hệ thống ISI, Scopus và một bằng độc quyền sáng chế.
Ứng viên thuộc nhóm ngành Khoa học Xã hội và Nhân văn là tác giả chính và đã công bố được ít nhất một bài báo khoa học trên tạp chí khoa học quốc tế thuộc hệ thống ISI, Scopus.
Dự thảo này sau đó nhận được nhiều ý kiến trái chiều nên năm 2017 vẫn áp dụng tiêu chuẩn của quyết định 174 (năm 2008) để xét công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư. Đợt xét này, hơn 1.200 người đạt tiêu chuẩn giáo sư, phó giáo sư, gấp 1,7 lần năm 2016 và gấp 2,3 lần năm 2015.
Theo VNE
Số phó giáo sư tăng vọt, vì đâu? Hội đồng chức danh giáo sư Nhà nước vừa công bố số lượng tân giáo sư, phó giáo sư được công nhận năm 2017. Trong đó đáng chú ý là số giáo sư, phó giáo sư tăng mạnh so với những năm trước. ảnh minh họa Cụ thể, năm 2017 tổng số ứng viên đạt phó giáo sư là 1.141 và 85 ứng...