Cả 4 cuốn Tiếng Việt 1 có ’sạn’: Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam nói gì?
Theo phản ánh của giáo viên, cả 4 cuốn Tiếng Việt 1 thuộc 4 bộ sách giáo khoa mới do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam phát hành đều có lỗi về ngữ liệu, ngữ pháp.
Trả lời VTC News, đại diện Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam cho biết, đơn vị đã nắm được thông tin giáo viên, phụ huynh và báo chí phản ánh về “sạn” trong 4 cuốn sách Tiếng Việt 1 thuộc 4 bộ: Kết nối tri thức với cuộc sống; Vì sự bình đẳng, dân chủ trong giáo dục; Cùng học để phát triển năng lực và Chân trời sáng tạo.
Hiện có rất nhiều ý kiến trái chiều liên quan đến “sạn” trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. Đơn vị đang lắng nghe thêm ý kiến các chuyên gia, đồng thời cho rà soát lại toàn bộ chi tiết được phản ánh là sai sót, chưa chuẩn về ngữ liệu, ngữ pháp trong Tiếng Việt 1.
Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam đã gửi báo cáo kết quả rà soát, đánh giá về những thông tin do giáo viên, báo chí phản ánh lên Bộ GD&ĐT. Sau khi có thông báo, nhà xuất bản sẽ công bố. Nếu có sai sót, nhà xuất bản sẽ xem xét điều chỉnh phù hợp với học sinh để có những bộ sách đạt chuẩn giáo dục nhất có thể.
Đoạn trích bài “Ếch con tính nhẩm” trong sách Cùng học để phát triển năng lực.
Liên quan vấn đề trên, đại diện Vụ Giáo dục Tiểu học, Bộ GD&ĐT cho biết, tại Điều 9, Thông tư 33 của Bộ GD&ĐT quy định về thẩm định chỉnh sửa nội dung sách giáo khoa có ghi rõ: “Sách giáo khoa không phải là tài liệu bất biến”.
Do vậy, các nhà xuất bản và lực lượng liên quan đến sách giáo khoa có trách nhiệm cũng như quyền hạn điều chỉnh, bổ sung nội dung sách giáo khoa hợp lý và ngày càng tốt hơn. Chẳng hạn một số chỉ số liên quan đến tăng trưởng kinh tế, dân số, chỉ số môi trường hoặc điều chỉnh địa giới hành chính, nếu tình hình thực tế thay đổi, sách phải cập nhật, bổ sung thường xuyên.
Đại diện Bộ cho rằng, việc chỉnh sửa này rất bình thường khi biên soạn và sử dụng sách giáo khoa hàng năm và nó được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật, và tác giả là người chịu trách nhiệm cao nhất về sách giáo khoa.
Trong quá trình biên soạn và thẩm định, có thể hai đơn vị này chưa phát hiện ra nhưng trong quá trình sử dụng có những ý kiến phản hồi về những điều chưa hợp lý, đó là điều bình thường.
Như vậy, có thể hiểu, việc điều chỉnh ngữ liệu trong sách giáo khoa qua hai “kênh”. Thứ nhất, tác giả và nhà xuất bản phải tự rà soát để cập nhật những thông tin thay đổi thực tế (như số lượng dân số, địa giới hành chính, tăng trưởng kinh tế…). Thứ hai, tác giả và nhà xuất bản rà soát, nghiên cứu lại những phản hồi của người sử dụng sách giáo khoa. Việc này phải làm hàng năm, sau đó báo cáo về Bộ GD&ĐT những nội dung cần chỉnh sửa hay điều chỉnh.
Đồng thời, Bộ GD&ĐT cũng có văn bản gửi các nhà xuất bản, nhà trường và các giáo viên đề nghị trong quá trình sử dụng sách giáo khoa và các tài liệu liên quan, các đơn vị phải có trách nhiệm phản ánh những nội dung cần điều chỉnh và báo cáo về Bộ GD&ĐT để sớm có phương án khắc phục.
Bài đọc trong sách Tiếng Việt 1, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống.
Trong quá trình dạy học, nhiều giáo viên chỉ ra một số “sạn” cần khắc phục trong sách Tiếng Việt 1. Theo đó, ở bộ ” Vì sự bình đẳng và dân chủ trong giáo dục” , giáo viên lấy ví dụ bài tập đọc “Đi sở thú” (trang 73, tập 1, Tiếng Việt 1) kể chuyện một em bé tên là Lam đi sở thú. Đây có lẽ là sở thú kỳ lạ nhất thế gian: Chỉ có ngan, gà và “có anh chó vàng đua xe đạp”. Nhưng con vật này hoàn toàn không phải nuôi trong sở thú, những kiến thức này sai căn bản từ phía nhóm tác giả.
Đến bài “Đổ rác” (trang 153), “ Làm đẹp hè phố” (trang 157) cũng có rất nhiều sạn về mặt ngữ liệu khiến phụ huynh lo ngại, nếu học sinh phải thuộc những bài “thơ” này thì sẽ ra sao.
Ngoài bài tập đọc, sách này cũng có cách dùng từ ngữ âm, vần cũng có vấn đề, nhiều từ khó và nặng yếu tố địa phương xuất hiện trong các bài tập đọc như “muỗm” (trang 114), “lá trang” (trang 149), “bắc kim thang” (trang 177), “té” (trang 177), “con trích cồ” (trang 178), “phố (đường)”, “hộ”, “té (ngã)”, “bò bía”, chả,…
Trong sách Tiếng Việt 1, bộ ” Kết nối tri thức với cuộc sống” , giáo viên cho rằng, ở trang 147, cũng bài tập giải ô chữ nội dung dài gần kín cả trang với hơn 100 chữ, ngang với một bài tập đọc. Nhiều phụ huynh mệt nhoài theo con học cũng vì lý do này.
Tương tự, bài tập 2 (giải ô chữ) ở trang 167 cũng có những câu bí hiểm hơn, ví dụ “Ai ai cũng có – Chẳng nặng là bao? Bạn ơi đi đâu- Nhớ mang theo nhé. (Là gì?)”. Giáo viên đặt câu hỏi không biết cái mà “ai ai cũng có, chẳng nặng là bao, đi đâu cũng mang theo” này là cái gì, gợi người ta suy diễn ra cái gì.
Câu đố này, không có hình ảnh, chi tiết để trẻ nhận dạng và liên tưởng đến vật dụng hay ngoài vật dụng nên mang theo mình thường xuyên. Ngữ liệu này thể hiện sự cẩu thả, tùy tiện gây khó cho giáo viên khi thực hiện bài học trên lớp.
Video đang HOT
Ở mục giải câu đố, trang 79, tập 1 có ghi: Con gì tên rõ là “cha”- Có chứa chữ số nhìn qua ngỡ rùa – Con gì quen vẻ già nua- Bốn chân ngắn ngủn, thỏ thua chả ngờ. Để hiểu được câu đố, theo logic này, trẻ em phải có sự liên tưởng của người ngoài hành tinh: con gì tên rõ là “cha”. Ngay từ câu đầu, đã thấy vô nghĩa và phản giáo dục: “con (vật) gì” có tên gọi “cha” (bố)?.
Còn ở Tiếng Việt 1, bộ “Cùng học để phát triển vì giáo dục” có truyện “Tấm Cám” ở trang 109 (tập 1): “Tấm mồ côi mẹ, phải ở với mẹ kế là mẹ của Cám. Tấm rất chăm chỉ. Ngày ngày, Tấm mò cua, bắt cá, chăn trâu, cắt cỏ,… Còn Cám ham chơi, chả chịu làm gì. Có lần, cả hai đi bắt cá. Cám nghĩ kế lấy hết cá ở giỏ của Tấm để mẹ khen”.
Chỉ cắt một mẩu mấy câu mở đầu truyện “Tấm Cám” rất lửng lơ mà dám lấy tên truyện là “Tấm Cám”. Một mẩu truyện chẳng thành truyện này được chọn dạy cho trẻ em lớp 1 để làm gì, nhằm mục đích giáo dục cho trẻ cái gì?. Để được “mẹ khen”, Cám “nghĩ kế” lấy cắp hết cá của người khác? Dạy và khuyến khích trẻ em ăn cắp, để được mẹ khen?.
Giáo viên cho rằng, với nội dung bị cắt cúp như vậy, bài “Tấm Cám” này thật nguy hiểm vì tính phản giáo dục của nó. Không rõ vì sao tác giả và người thẩm định không “soi” ra lỗi này.
Chuyên gia chỉ hàng loạt "sạn" trong SGK tiếng Việt lớp 1 của NXB Giáo dục
PGS.TS Nguyễn Hữu Đạt, Viện trưởng Viện Ngôn ngữ và Văn hóa Phương Đông vừa đưa ra một loạt "sạn" trong sách giáo khoa tiếng Việt lớp 1 "Kết nối tri thức" và "Chân trời sáng tạo" của NXB Giáo dục.
Sai vì "ép khung"?
Trao đổi với PV Dân trí ngày 30/11, PGS. TS Nguyễn Hữu Đạt cho biết, sau phản ứng của dư luận về sách giáo khoa (SGK) tiếng Việt lớp 1 "Cánh diều", ông tiếp tục xem kĩ một số bộ SGK tiếng Việt lớp 1 khác của nhà xuất bản (NXB) Giáo dục thì thấy, có rất nhiều vấn đề sai sót ở các bộ sách này, thậm chí có nhiều sai sót lặp lại đồng loạt ở nhiều bộ sách khiến ông nghĩ đến có vấn đề "trục trặc" ở cấp vĩ mô.
Chẳng hạn, tại sao kiểu câu sai "bò có cỏ","thỏ có nho", "cô có đỗ đỏ", "ti vi có cá voi" lại xuất hiện đồng thời ở nhiều bộ sách? Sự lặp lại lỗi chắc chắn không phải là ngẫu nhiên mà liên quan đến các vấn đề mang tính lý luận.
PGS.TS Nguyễn Hữu Đạt cho biết, có rất nhiều vấn đề sai sót ở các bộ SGK tiếng Việt lớp 1 của NXB Giáo dục.
Ví dụ, việc dạy con chữ hoặc dạy các âm phải theo nguyên tắc, dạy đến đâu lấy thí dụ đến đó, điều này rất đúng về mặt lý thuyết.
Tuy nhiên, nếu áp dụng lí thuyết vào thực tế một cách cứng nhắc, nhất là dạy trẻ đọc và viết ở giai đoạn đầu, sẽ vấp phải những khó khăn không thể vượt qua đối với các nhà biên soạn.
Họ đã bị "ép khung" để soạn những câu không hợp với tư duy của người Việt như: "bò có cỏ", "thỏ có nho", "cô có đỗ đỏ", "ti vi có cá voi". Kiểu lỗi này mang phổ biến ở tất cả các bộ sách đang được dạy hiện nay.
Theo ông Đạt: "Nhà làm sách đã bỏ đi những mặt mạnh của phương pháp truyền thống, được cho rất hữu dụng khi dạy tiếng Việt cho trẻ em, đó là kiểu câu có mô hình cấu trúc: "Đây là...".
Lỗi thứ hai: Các nhóm biên soạn đều áp dụng khá triệt để phương pháp "dạy giao tiếp" mà một số công trình dạy ngoại ngữ thường sử dụng.
Nhà làm sách đã bỏ đi những mặt mạnh của phương pháp truyền thống, được cho rất hữu dụng khi dạy tiếng Việt cho trẻ em, đó là kiểu câu có mô hình cấu trúc: "Đây là...".
Mô hình này, các sách "dạy tiếng" trước đây thường sử dụng, nay được cho lỗi thời đối với phương pháp "dạy giao tiếp", nhưng nó lại là mô hình rất thiết thực đối với việc dạy tiếng Việt cho học sinh bản ngữ.
Bởi vì, "Đây là..." chỉ có phụ âm đầu lưỡi răng là [đ ], nguyên âm [â],[a], [y] và phụ âm bên [ l ].
Đó là các nguyên âm và phụ âm không khó phát âm đối với trẻ, nhưng nó rất tiện dụng cho việc mở rộng vốn từ và củng cố mô hình câu cho học sinh.
Kiểu câu "cô có đỗ đỏ", xuất hiện ở bài học số 3, trang 30, SGK tiếng Việt lớp 1 "Chân trời sáng tạo".
Thay vì dùng các câu như: bò có cỏ, thỏ có nho..., ta sẽ có các câu như: "Đây là bó cỏ", "đây là con thỏ", "đây là quả nho"... vừa chuẩn mực, vừa dễ nhớ với người mới đi học.
Đó cũng là mô hình có độ mở, vì các em có thể tạo ra nhiều câu khác nhau tùy theo vốn từ của mình. Rất tiếc, do chạy theo phương pháp mới, nên không có bộ sách nào dùng nó.
Nếu đặt trong tổng thể chung, không chỉ có bộ sách "Cánh diều" mà cả những bộ SGK tiếng Việt khác của NXB Giáo dục cũng có rất nhiều lỗi tương tự nhau, mang tính đồng loạt.
Nhiều câu hỏi mơ hồ, không phù hợp
Ngoài ra, theo chuyên gia này, nhiều bài học ở SGK tiếng Việt lớp 1 "Kết nối tri thức với cuộc sống" (và một số bộ khác), có khá nhiều câu hỏi mơ hồ, không phù hợp, lặp lại ở nhiều bài học.
Chẳng hạn câu 1, bài 3 "Cả nhà đi chơi núi" (trang 30), tác giả đặt câu hỏi: "Gia đình trong tranh gồm những ai?".
Câu hỏi khó với học sinh lớp 1 bởi trong bức tranh có nhiều người thừa.
Ông Đạt cho rằng, câu hỏi này đánh đố học sinh lớp 1 bởi ngoài gia đình, bức tranh còn có nhiều người khác, làm sao học sinh biết đó là ai?
Điều này cũng lặp lại ở bài 5 "Tiếng vọng của núi", trang 98, tác giả đưa bức tranh hai chú gấu và đặt câu hỏi: "Em thấy gì trong bức tranh? Hai phần của bức tranh có gì giống và khác nhau?".
Tác giả muốn học sinh phát hiện ra sự khác biệt trong vẻ mặt của chú gấu nhưng điều này thực sự đánh đố trẻ lớp 1.
Nên chăng, cần đặt lại câu hỏi tường minh hơn "Em nhận thấy nét mặt hai chú gấu có gì khác nhau?".
Nên chăng, cần đặt lại câu hỏi tường minh hơn "Em nhận thấy nét mặt hai chú gấu có gì khác nhau", để khỏi đánh đố.
Trong bài 4 "Quạt cho bà ngủ" (trang 34), tác giả đặt câu hỏi: "Em thấy gì trong tranh? Khi người thân bị ốm, em thường làm gì?".
Cùng với đó, ngữ liệu đưa ra trong bức tranh có nhiều hình ảnh không liên quan tới việc chăm bà ốm như: Bàn, ghế, cửa sổ, cây cối... chưa thật sự phù hợp.
Nội dung bài học một đằng, tranh minh họa một nẻo
Cũng theo PGS.TS Nguyễn Hữu Đạt, ở cả hai bộ SGK tiếng Việt lớp 1 "Kết nối tri thức với cuộc sống" và "Chân trời sáng tạo", nhiều bài học một đằng, hình minh họa một nẻo.
Cụ thể, trong SGK "Kết nối tri thức với cuộc sống", ở bài 3 "Cả nhà đi chơi núi" (trang 30), ngữ liệu đưa ra là hình ảnh hai người lớn và hai trẻ em.
"Nếu tôi thẩm định bài này, tôi sẽ bỏ hình ảnh 4 người xa xa trong bức tranh kia, hoặc thay tiêu đề bài học thành "Em đi chơi núi" thì phù hợp hơn", ông Đạt cho hay.
Bài "Ngôi nhà", trang 40-41 ghi: "Em yêu ngôi nhà/Gỗ tre mộc mạc", "tiếng chim hót đầu hồi". Tuy nhiên, hình ảnh minh họa lại là một ngôi nhà xây, mái ngói đỏ rực, và con chim ở trước sân.
Về sử dụng từ, trong bài này có câu: "Nam và Đức thích thú, đuổi nhau hùynh hụych". PGS.TS Nguyễn Hữu Đạt cho hay, câu này có lỗi sai tệ hại về ngôn ngữ bởi không ai nói "đuổi nhau hùynh hụych" mà người ta chỉ nói "chạy hùynh hụych".
Cũng với lỗi sai từ ngữ, ông Đạt dẫn bài đọc "Cuộc thi tài năng rừng xanh" (trang 115) khi tác giả sử dụng từ "chuếnh choáng" trong câu: "Chim công khiến khán giả say mê, chuếnh choáng vì điệu múa tuyệt đẹp" là chưa phù hợp.
Từ này thường chỉ dùng để miêu tả biểu hiện của say bia rượu hơn là say điệu múa. Đặc biệt, bài đọc này có từ "niêm yết" quá khó với học sinh lớp 1.
Trong bài "Ngôi nhà", trang 40-41 ghi: "Em yêu ngôi nhà/Gỗ tre mộc mạc". Tuy nhiên, hình ảnh minh họa lại là một ngôi nhà xây, mái ngói đỏ rực.
Cũng ở bài này có đoạn: "Em yêu tiếng chim/Đầu hồi lảnh lót". Tuy nhiên, hình ảnh minh họa hình ảnh đôi chim ở... trước sân, không phải "đầu hồi".
Ở bài 1 (trang 31) hình ảnh minh họa là bờ đê nhưng ông Đạt cho rằng nó giống bờ đập.
Ở bộ " "Chân trời sáng tạo" của NXB Giáo dục cũng không ít " sạn". Chẳng hạn, ở bài 1 (trang 31) hình ảnh minh họa là bờ đê nhưng ông Đạt cho rằng, với một người từng một phần đời gắn bó cuộc sống ở nơi ven sông( có các triền đê), ông thấy hình ảnh trong SGK này giống bờ đập hơn bờ đê.
Ở bài "Sóng biển" (trang 29) có viết: "Đêm nào Na cũng nghe tiếng sóng biển vỗ òam oạp vào vách đá".
Chuyên gia này lý giải, thông thường biển là nơi có bãi cát thoai thoải, còn nơi có vách đá là rất hiếm, nên "thấy sóng vỗ òam oạp vách đá" là hình ảnh ít phổ biến.
Bài học đưa ra ngữ liệu "Sóng biển vỗ òam oạp vào vách đá" nhưng trong tranh không thấy vách đá, chỉ có hình ảnh bờ biển êm đềm với hàng cây.
Nhất là trong tranh lại không thấy vách đá đâu cả, mà chỉ có hình ảnh bờ biển êm đềm với hàng cây.
Như thế, việc liên tưởng của học sinh sẽ rất khó khăn, người dạy cũng mệt nhoài vì phải giải thích...
Ở bài 3, trang 65 có ghi: "Bé rủ chị qua chỗ có sư tử", chuyên gia này cho rằng, viết như thế rất thiếu chuẩn mực, bởi xét về tư duy, không ai lại có suy nghĩ kỳ cục: rủ nhau đến chỗ sư tử .
Khi dạy trẻ, cần phải có cách tư duy chính xác. Cụ thể, có thể thay thế bằng một câu khác, chẳng hạn như: "Bé rủ chị qua chỗ nhốt sư tử", sẽ phù hợp hơn.
Giáo viên tiếp tục nhặt 'sạn' Tiếng Việt 1, bộ Cùng học để phát triển năng lực Nhiều bài tập đọc trong sách Tiếng Việt 1, bộ Cùng học để phát triển năng lực xuất hiện lỗi về ngữ liệu, ngữ pháp khó có thể chấp nhận trong việc dạy học sinh lớp 1. Thời gian qua, các cuốn sách giáo khoa Tiếng Việt 1 xuất hiện quá nhiều sạn, những lỗi sai cơ bản về ngữ liệu và ngữ...