Big Tech phải thực thi cam kết chống biến đổi khí hậu
Đợt hạn hán kỷ lục ở miền Tây nước Mỹ buộc các ông lớn công nghệ phải có trách nhiệm hơn trong việc sử dụng nước, đưa ra cam kết tiết kiệm hướng tới giảm sự nóng lên toàn cầu.
Các nhà máy sản xuất chip bán dẫn ngốn một lượng nước khổng lồ lên tới 7,5 – 15,1 triệu lít nước mỗi ngày, tương đương lượng nước sử dụng của 13.698 – 27.397 hộ dân.
Đó là lý do Intel đưa ra cam kết đến năm 2030 sẽ phục hồi và trả lại nước ngọt nhiều hơn mức sử dụng, khi đã dùng tới 47,6 tỷ lít nước ngọt năm 2019 mà chỉ trả lại 20%.
Các Big Tech nước Mỹ khác dù không vận hành nhà máy nhưng cũng sở hữu những trung tâm dữ liệu (data center) khổng lồ, cần một lượng nước nhiều không kém để làm mát máy chủ.
Chẳng hạn như mạng xã hội Facebook trong năm 2020 đã tiêu thụ 3,7 triệu mét khối nước ngọt (3,7 tỷ lít nước), tương đương khối lượng nước ở 1.500 bể bơi tiêu chuẩn Olympics. Với Apple, con số này là 4,8 tỷ lít nước, chiếm 90% là nước ngọt và chỉ 9% là nước tái chế.
Lake Mead, hồ dự trữ lớn nhất của dòng sông Colorado hiện đã cạn khô vì đợt hạn hán kỷ lục ở miền Tây nước Mỹ.
Điều này buộc các Big Tech phải có trách nhiệm hơn trong việc sử dụng nguồn nước sạch, trong bối cảnh Liên Hợp Quốc đưa ra cảnh báo rằng khó có thể đạt được mục tiêu hạn chế nhiệt độ Trái đất tăng thêm 2 độ C với tình trạng hiện nay.
Đây là lúc các hãng công nghệ vốn tăng trưởng nhanh nhờ những con chip tốn nước, trung tâm dữ liệu tốn điện phải có trách nhiệm hơn với hành tinh xanh.
Video đang HOT
Cụ thể, Apple hôm thứ tư đã đưa ra tuyên bố ủng hộ chương trình năng lượng sạch của chính quyền Tổng thống Joe Biden trong một tầm nhìn đến năm 2035 loại bỏ khí nhà kính khỏi các nhà máy năng lượng.
Vận hành data center không chỉ siêu tốn điện mà còn tốn nước.
Trước đó, ứng dụng nhắn tin tức thời Snapchat cũng cam kết cắt giảm khí gây hiệu ứng nhà kính, đạt mục tiêu trung hòa carbon và chỉ sử dụng 100% năng lượng tái tạo. Trước đó, Jeff Bezos đã đưa ra cam kết khí hậu mà dự kiến đến năm 2024, 80% điện năng mà Amazon tiêu thụ là từ nguồn năng lượng tái tạo.
Còn Facebook đã khởi động những dự án hồi phục nước ở các tiểu bang New Mexico, Arizona, Texas, Utah, Oregon và California. Dự án trong đó bao gồm phục hồi và giữ ổn định mực nước của hồ Mead trên con đập nổi tiếng Hoover ở Arizona, vốn đang trong tình trạng cạn khô vì hạn hán kỷ lục ở miền Tây nước Mỹ.
Hồi đầu năm nay, Facebook tuyên bố đạt được mức phát thải khí nhà kính cân bằng (net-zero) và hiện đã sử dụng 100% năng lượng tái tạo. Mạng xã hội này đặt mục tiêu đến năm 2030 toàn bộ chuỗi cung ứng sẽ đạt trạng thái trung hòa carbon.
Nhiều quốc gia đang thúc đẩy sản xuất chip riêng vì an ninh quốc gia
Một nhà phân tích tại công ty phân tích thị trường Moodys Analytics (Mỹ) cho biết, ngày càng có nhiều quốc gia đang thúc đẩy sản xuất chip bán dẫn của riêng họ vì vấn đề an ninh quốc gia.
Một nhà phân tích tại công ty phân tích thị trường Moodys Analytics (Mỹ) cho biết, ngày càng có nhiều quốc gia đang thúc đẩy sản xuất chip bán dẫn của riêng họ vì vấn đề an ninh quốc gia.
Trao đổi với CNBC ngày 2/8, Timothy Uy, Phó Giám đốc công ty Moodys Analytics cho rằng: "Nhu cầu về nguồn cung chip bán dẫn ngày càng lớn. Về cả phía cung và cầu, tôi cho rằng các công ty đang điều chỉnh. Bên cạnh đó, chính phủ các nước cũng đang vào cuộc vì họ coi đây là vấn đề an ninh quốc gia, theo một nghĩa nào đó".
Chip bán dẫn có mặt ở khắp mọi nơi, nếu không có chúng, rất nhiều sản phẩm sẽ không hoạt động. Điều này đã được chứng minh bởi ngành công nghiệp ô tô, nơi các nhà sản xuất ô tô buộc phải ngừng sản xuất do tình trạng thiếu chip bán dẫn trên toàn cầu.
Một số báo cáo cho biết tình trạng thiếu chip có thể kéo dài đến năm 2023.
Tại sao lại thiếu chip bán dẫn trên toàn cầu?
Theo đánh giá của ông Timothy Uy thì việc sản xuất chip bán dẫn là một quá trình phức tạp, đòi hỏi đầu tư nhiều vốn và mất rất nhiều thời gian sản xuất cũng như phân phối chúng.
Ông giải thích rằng, nguồn cung mới không thể được tạo ra ngay lập tức và đôi khi, có thể mất nhiều năm để có nguồn cung mới vì các nhà máy cần được xây dựng và trang bị công nghệ thích hợp.
Quy trình sản xuất mỗi thế hệ chip bán dẫn là khác nhau. Các chip mới hơn có tỷ suất lợi nhuận lớn hơn, điều này mang lại cho các nhà sản xuất lớn nhiều động lực hơn để đầu tư vào sản xuất của họ thay vì chuyển hướng nguồn lực để tăng công suất cho các chip thế hệ cũ. Đó là một phần lý do tại sao ngành công nghiệp ô tô đang gặp khó khăn, ông Timothy Uy cho biết thêm.
Trong thực tế, ngành công nghiệp ô tô cần những con chip lạc hậu hơn so với điện thoại thông minh và các thiết bị khác.
Tuy nhiên, ông Timothy Uy cũng cho rằng, sẽ có rất nhiều nguồn cung mới ra đời khi các nhà sản xuất chip lớn trên thế giới như TSMC, UMC của Đài Loan và Samsung của Hàn Quốc đang đầu tư vốn để xây dựng các nhà máy sản xuất mới.
Các quốc gia đang làm gì để thúc đẩy nguồn cung chip bán dẫn?
Nhiều quốc gia trên thế giới đã cam kết đầu tư và đang theo đuổi các chính sách để tăng năng lực sản xuất chip cũng như tạo ra các chuỗi cung ứng nội địa nhằm vượt qua tình trạng thiếu hụt chip bán dẫn đang diễn ra.
Ví dụ, Hàn Quốc đã công bố một chương trình trị giá khoảng 450 tỷ USD cho đến năm 2030 bao gồm các khoản đầu tư của doanh nghiệp. Chính phủ cũng đã thúc đẩy các chính sách về thuế để giúp cho các nhà sản xuất chip trong nước cạnh tranh hơn trên thị trường bán dẫn.
Trung Quốc đã thành lập các quỹ quốc gia trị giá hàng tỷ USD để đầu tư vào các nhà sản xuất chip trong nước nhằm bắt kịp các công ty như Mỹ, Hàn Quốc và Đài Loan.
Mỹ đã thông qua dự luật công nghệ và sản xuất bao gồm 52 tỷ USD để tài trợ cho các sáng kiến nghiên cứu, thiết kế và sản xuất chất bán dẫn. Liên minh châu Âu cũng chuẩn bị cam kết tài trợ một khoản tiền đáng kể để mở rộng sản xuất chất bán dẫn của EU.
Ông Timothy Uy cho biết, sự tham gia của chính phủ có thể giúp sân chơi bình đẳng và giảm bớt một số áp lực thiếu hụt nguồn cung chất bán dẫn đặc biệt là giá chip nhớ, vì chỉ có một số ít công ty toàn cầu thống trị chuỗi cung ứng này.
Một khi các chính phủ đưa ra chính sách trợ cấp và hỗ trợ gián tiếp cho các doanh nghiệp nội địa nhỏ hơn tham gia vào việc sản xuất chip bán dẫn, điều đó về cơ bản sẽ làm tăng nguồn cung, và có thể lấp đầy sự thiếu hụt nguồn cung cho các nhà sản xuất ô tô, ông Timothy Uy nhận định.
Google tự xây dựng bộ vi xử lý smartphone riêng Đây là ví dụ mới về việc một công ty Big Tech tự sản xuất chip của riêng mình thay vì dựa vào nhà sản xuất chip truyền thống như Qualcomm hoặc Intel. Google Tensor Theo CNBC, Google hôm 2.8 công bố sẽ xây dựng bộ xử lý điện thoại thông minh riêng gọi là Google Tensor, để cung cấp năng lượng cho...