Bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm cho tr.ẻ e.m dân tộc thiểu số
Xác định việc bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP) trong trường học bán trú là một nhiệm vụ quan trọng, những năm qua, cùng với đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, các trường có học sinh bán trú trên địa bàn huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái đặc biệt chú trọng đến khâu bảo đảm ATVSTP trong các bữa ăn của trẻ.
Huyện Trạm Tấu nâng cao chất lượng bữa ăn cho các học sinh trường bán trú. Ảnh: Xuân Việt
Bảo đảm nguồn gốc xuất xứ
Trường Phổ thông dân tộc bán trú (PTDTBT) Tiểu học và trung học cơ sở (THCS) xã Túc Đán (huyện Trạm Tấu) hiện nay có 26 lớp với 899 học sinh, trong đó có 833 học sinh được hưởng chế độ bán trú. Với lượng lớn học sinh ăn 3 bữa nên để bảo đảm ATVSTP trong bữa ăn hàng ngày ở trường, việc bố trí nhân sự là điều mà nhà trường ưu tiên. Trước mắt, nhà trường đã sắp xếp 9 nhân viên dinh dưỡng có nhiều năm kinh nghiệm làm việc.
Bên cạnh đó, nhà trường đã quy hoạch khu vực nhà bếp theo mô hình một chiều với khu vực tiếp nhận, sơ chế thực phẩm tươi sống, khu vực chế biến, chia khẩu phần ăn được bố trí tách biệt để bảo đảm ATVSTP. Chưa kể, vào đầu năm học, Trung tâm Y tế huyện Trạm Tấu và Chi cục ATVSTP tỉnh cũng đã đến kiểm tra, cấp giấy chứng nhận bếp ăn bảo đảm ATVSTP; tổ chức tập huấn về an toàn thực phẩm và khám sức khỏe định kỳ cho 100% nhân viên nhà bếp.
Phó Hiệu trưởng Trường PTDTBT Tiểu học và THCS Túc Đán Nguyễn Thị Minh chia sẻ, muốn các em học tốt, trước hết phải cho các em có sức khỏe và thể lực tốt. Bởi vậy, việc chăm sóc các em qua bữa ăn là điều rất quan trọng. Theo đó, trường đã triển khai xây dựng khu vực sơ chế, chế biến, chia thức ăn bảo đảm nguyên tắc một chiều; nhân viên dinh dưỡng được kiểm tra, khám sức khỏe và tập huấn về công tác bảo đảm ATVSTP định kỳ. Bên cạnh đó, khâu nhập nguyên liệu, thực phẩm vào hàng ngày cho các bếp ăn ở trường cũng phải là các doanh nghiệp, cơ sở có uy tín, bảo đảm về chất lượng và có sự kiểm soát chặt chẽ.
Nhân viên dinh dưỡng Trường PTDTBT Tiểu học và THCS Túc Đán Thào Thị Bầu cũng cho hay, để có nguồn thực phẩm sạch, an toàn cho bếp ăn bán trú, Trường PTDTBT Tiểu học và THCS Túc Đán đã ký hợp đồng cung cấp thực phẩm với những địa chỉ tin cậy, bảo đảm thực phẩm có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Cùng với đó, hàng ngày, khi thực phẩm được mang vào trường, Ban giám hiệu, nhân viên y tế và Trưởng ban thanh tra sẽ trực tiếp kiểm tra thực phẩm, bảo đảm độ tươi ngon. Trong quá trình chế biến, các nhân viên nhà bếp tiếp tục kiểm tra, nếu thực phẩm có vấn đề sẽ báo cáo lên Ban giám hiệu.
Phối hợp đồng bộ
Trong năm qua, công tác bảo đảm ATVSTP đã được các cấp, các ngành trong tỉnh quan tâm chỉ đạo thực hiện, đặc biệt là công tác thanh kiểm tra, công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của người dân. Tuy nhiên, hiện nay, việc quản lý ATVSTP ở vùng cao, vùng nông thôn còn nhiều hạn chế. Vì vậy, thời gian tới, cần tập trung vào công tác thông tin tuyên truyền về ATVSTP, đặc biệt, cần tập trung tới vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa để thay đổi nhận thức và hành vi của người sản xuất và người tiêu dùng; công khai những cơ sở sản xuất vi phạm, giới thiệu những cơ sở sản xuất ATVSTP trên các phương tiện thông tin đại chúng…
Video đang HOT
Nhấn mạnh việc bảo đảm ATVSTP trong các bếp ăn tập thể, nhất là các trường học bán trú là một nhiệm vụ quan trọng, ông Lương Quốc Dũng, Chi cục trưởng Chi cục ATVSTP tỉnh Yên Bái cho rằng cần có sự phối hợp đồng bộ của các cấp, ngành, nhà trường, gia đình và các em học sinh. Phó Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Trạm Tấu Đỗ Văn Khanh cũng cho hay, để phòng ngừa và hạn chế thấp nhất tình trạng ngộ độc thực phẩm, giúp trẻ phát triển toàn diện, song song với việc đầu tư cơ sở vật chất bếp ăn, các trường học cần tăng cường kiểm soát đầu vào các loại thực phẩm, bảo đảm các thực phẩm đưa vào nhà trường có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác kiểm tra đột xuất với những bếp ăn trong trường học, từ đó kịp thời tuyên truyền, nhắc nhở và có biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với các cơ sở vi phạm, bảo đảm bữa ăn an toàn cho trẻ, góp phần bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho các em.
Ngoài ra, để tiếp tục thực hiện tốt việc bảo đảm ATVSTP trong trường bán trú, tránh nguy cơ tiềm ẩn ngộ độc thực phẩm, dịch bệnh, các cấp, các ngành, các tổ chức cần quan tâm hơn đến việc đầu tư về cơ sở vật chất; thường xuyên mở các lớp tập huấn để nâng cao năng lực cho các cán bộ đảm nhận công tác dinh dưỡng trong các nhà trường. Cơ quan chức năng, nhà trường và phụ huynh học sinh cần phối hợp chặt chẽ trong kiểm tra, giám sát, đầu tư cơ sở vật chất để bảo đảm sức khỏe cho học sinh.
Diệp Anh
Theo bienphong.com
Hành trình đến với giáo dục vùng khó
"Chúng tôi mong muốn tìm hiểu xem đằng sau bộ quần áo dân tộc sặc sỡ, điệu múa xòe đẹp đẽ kia là những câu chuyện không thể bỏ qua về sự khó khăn, năng lực, danh dự, trách nhiệm, tình yêu dành cho tr.ẻ e.m dân tộc thiểu số.
Điều đó sẽ góp phần giúp cộng đồng dân tộc thiểu số tạo ra những giá trị cho quốc gia"- Ông Micheal Croft (Trưởng Đại diện UNESCO tại Việt Nam) chia sẻ với Báo GD&TĐ về mối quan tâm và hành động của tổ chức này.
Ông Micheal Croft. Ảnh: ITN
Đường đến trường khó khăn
* Qua thực tế khảo sát ở các địa phương, ông có nhận định gì về những khó khăn mà GD vùng dân tộc thiểu số của Việt Nam đang phải đối mặt?
-UNESCO đã thực hiện nhiều khảo sát trực tiếp tại những nơi có đông đảo tr.ẻ e.m dân tộc thiểu số sinh sống. Ví dụ, ở tỉnh Hà Giang, UNESCO nhận thấy có nhiều thách thức trong việc học hành của tr.ẻ e.m nơi đây. Mặc dù các gia đình đã có thay đổi về nhận thức, cha mẹ là người dân tộc thiểu số cũng mong muốn cho tr.ẻ e.m đến trường. Tuy nhiên việc tiếp cận với GD và được học lên cao vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là với tr.ẻ e.m gái.
Thêm nữa, ở nhiều khu vực đường đến trường rất xa, đi lại khó khăn, trong hoàn cảnh thời tiết khắc nghiệt; việc huy động HS dân tộc thiểu số (DTTS) đi học đều đặn là một vấn đề không dễ dàng.
Dù ngành GD Việt Nam và các địa phương đã có nhiều nỗ lực trong đầu tư trường lớp nội trú cho HS DTTS, nhưng thực tế đòi hỏi cần tăng thêm hơn nữa những điều kiện để tr.ẻ e.m vùng khó khăn nói chung và vùng DTTS nói riêng, nhất là tr.ẻ e.m gái DTTS có cơ hội tiếp cận GD tốt hơn.
Một vấn đề nữa liên quan đến hoàn cảnh kinh tế và nhận thức của người dân. Tại một số địa phương, việc trẻ đi bán hàng lưu niệm ở khu du lịch hay bỏ học ở nhà trông em bé vẫn diễn ra. Hiện còn nhiều trẻ hàng ngày phải tham gia lo kinh tế cùng gia đình. Thậm chí có những em phải bỏ học để kiếm sống, hoặc tr.ẻ e.m gái lấy chồng từ rất sớm. Tất cả những điều này đều tác động không nhỏ đến nỗ lực phát triển GD dân tộc thiểu số.
*Từng công tác ở nhiều quốc gia, ông có thể chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ của UNESCO trong việc cải thiện các khó khăn, tạo cơ hội tiếp cận GD cho tr.ẻ e.m vùng dân tộc thiểu số?
-Ở những nơi tôi từng làm việc, việc tiếp cận GD cho tr.ẻ e.m cũng bị giới hạn bởi những khó khăn. Điều đáng chú ý là ở một số nơi UNESCO đã hỗ trợ để có thể tổ chức các lớp học từ xa, tiếp cận GD qua Internet, qua radio, truyền hình.
Tại Việt Nam, trong dự án mới đây có sự chung tay của UNESCO với Bộ GD&ĐT, chúng tôi chưa bàn đến các hình thức hỗ trợ GD tương tự. Nhưng theo tôi, về sau này Việt Nam cũng cần cân nhắc đến mô hình "mobile learning" cho những vùng DTTS đi lại khó khăn. Bởi, hiện nay gia đình Việt Nam nào cũng có điện thoại. Cha mẹ và thậm chí tr.ẻ e.m DTTS cũng sử dụng thành thạo điện thoại.
Thực tế ở mỗi địa phương của Việt Nam đều có khó khăn riêng. UNESCO cho rằng cần có phương thức tiếp cận toàn diện về GD. Điều đáng mừng là những ưu tiên của Chính phủ Việt Nam về bình đẳng giới, tr.ẻ e.m, đói nghèo, giáo dục... cũng là trọng tâm mà UNESCO đang hướng đến, với mong muốn hỗ trợ cộng đồng, đặc biệt là nhóm yếu thế như tr.ẻ e.m gái dân tộc thiểu số. Vì có chung mục tiêu như vậy, hoạt động hỗ trợ phát triển GD dân tộc thiểu số của UNESCO đã nhận được sự ủng hộ rất lớn từ Chính phủ Việt Nam cũng như Bộ GD&ĐT.
Lắng nghe những mong muốn, ước mơ
*Chương trình UNESCO cùng Bộ GD&ĐT đang thực hiện với sự chung tay của chính quyền địa phương có tên gọi "We are able" (Chúng ta có thể). Chương trình này hoạt động như thế nào thưa ông?
-Chiến lược quốc gia mới của UNESCO là "Hướng tới mức sống và giáo dục tốt hơn". UNESCO tập trung vào ưu tiên phát triển những lĩnh vực mấu chốt, nhằm hỗ trợ Chính phủ Việt Nam trong việc thực thi chương trình nghị sự đến năm 2030 của Liên Hợp Quốc. "We are able" là tên một sáng kiến, trong sáng kiến này UNESCO muốn bày tỏ cam kết của mình về vấn đề về bình đẳng giới, sự phát triển toàn diện của tr.ẻ e.m dân tộc thiểu số nói riêng và thanh thiếu niên nói chung.
Khi phối hợp với Bộ GD&ĐT để triển khai "We are able", UNESCO hiểu rằng để thực hiện được mục tiêu, chúng tôi cần phải quan tâm đặc biệt những đối tượng dễ bị tổn thương nhất, đó chính là phụ nữ, tr.ẻ e.m ở vùng dân tộc thiểu số chưa có điều kiện tiếp cận đầy đủ việc học hành.
UNESCO đã tham vấn với Bộ GD&ĐT, làm việc với Ủy ban Dân tộc và đã xây dựng một đề xuất dự án. Sau khi tiến hành các đợt khảo sát cuối năm ngoái, chương trình xác định 3 tỉnh Hà Giang, Sóc Trăng, Ninh Thuận là nơi thực hiện thí điểm "We are able"cùng Bộ GD&ĐT và Tập đoàn CJ (Hàn Quốc).
*"We are able" có thể mang lại những gì cho tr.ẻ e.m dân tộc thiểu số, thưa ông?
"We are able" (Chúng ta có thể), nhằm hỗ trợ tr.ẻ e.m và phụ nữ dân tộc thiểu số có mức sống và cơ hội giáo dục tốt hơn. Trong 3 năm, chương trình này sẽ thu hút sự tham gia của khoảng 16.000 người trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở 3 tỉnh Hà Giang, Ninh Thuận và Sóc Trăng.
-Về cơ bản có 3 lĩnh vực trọng tâm. Thứ nhất, thúc đẩy cách tiếp cận đối với cộng đồng. Chúng tôi sẽ đặt phụ nữ, tr.ẻ e.m gái vùng dân tộc thiểu số làm trọng tâm của hoạt động, qua đó kể câu chuyện của họ về học vấn, việc làm. Chẳng hạn: Vì sao phụ nữ và tr.ẻ e.m gái dân tộc thiểu số muốn đến trường? Vì sao việc học lại quan trọng với họ, với bạn bè họ, với các cha mẹ dân tộc thiểu số, cũng như với chính quyền địa phương?
Thứ hai, khía cạnh "We are able" sẽ tập trung là an toàn học đường, điều này cũng đang được quan tâm tại Việt Nam, không chỉ ở vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số. Mong muốn của chương trình là làm sao để không còn chuyện bắt nạt, bạo lực, xâm hại tìn.h dụ.c... UNESCO và các đối tác thực hiện "We are able" mong muốn trao thêm quyền năng cho tr.ẻ e.m gái, cho cả GV dạy trẻ ở trường, để tạo nên một môi trường học đường an toàn, lành mạnh, trên cơ sở bình đẳng giới.
Điều quan trọng thứ 3 mà chúng tôi hướng tới, là sự tăng cường cơ hội việc làm cho tr.ẻ e.m gái và phụ nữ trẻ vùng DTTS, thông qua chương trình định hướng nghề nghiệp. Tùy từng hoàn cảnh của mỗi địa phương, hướng nghiệp nhằm giúp tr.ẻ e.m gái và phụ nữ trẻ DTTS tìm việc làm phù hợp với khả năng, qua việc hỗ trợ đào tạo, hướng dẫn, đáp ứng nhu cầu công việc.
Chúng tôi muốn sử dụng sáng kiến này như một cơ hội để phá bỏ những định kiến, hủ tục trong cộng đồng dân tộc thiểu số bằng cách cho tr.ẻ e.m DTTS được nói ra. Chúng tôi muốn tr.ẻ e.m kể cho mọi người nghe câu chuyện về sở thích như nghe nhạc K- pop, hay về ước mơ trở thành kỹ sư, hoặc sự sợ hãi về biến đổi khí hậu... Chúng tôi để tr.ẻ e.m DTTS nói lên tiếng nói của mình, thể hiện mong muốn của các em cùng với những tr.ẻ e.m đồng trang lứa khác trên khắp đất nước.
Thanh Tuấn
Theo GDTĐ
Học sinh Thủ đô có nhiều lựa chọn tham gia các hoạt động bổ ích trong dịp nghỉ hè 2019 Sở GDĐT Hà Nội vừa ban hành kế hoạch tổ chức hoạt động hè cho học sinh năm 2019 ngành GDĐT Hà Nội và triển khai Tháng hành động vì tr.ẻ e.m năm 2019 với chủ đề "Chung tay vì tr.ẻ e.m nghèo, tr.ẻ e.m dân tộc thiểu số". Theo kế hoạch này, việc tổ chức hoạt động hè cho học sinh trên...