Bánh khúc làng Diềm của làng quan họ Bắc Ninh
Bánh khúc làng Diềm bình dị, thảo thơm của vùng quê Kinh Bắc với màu xanh dân dã, bình dị mà thắm đượm, thảo thơm tình người.
Làng Diềm là tên gọi nôm của thôn Viêm Xá, xã Hòa Long, thành phố Bắc Ninh. Đây là ngôi làng cổ có đền thờ Đức Vua Bà, thuỷ tổ quan họ. Bởi vậy mà là Diềm đã trở thành điểm đến quen thuộc cho những ai muốn được tìm hiểu và lắng nghe những làn điệu dân ca quan họ mượt mà.
Bên cạnh những câu hát dân ca quan họ đi vào lòng người, những du khách đến với làng Diềm còn không thể quên được món bánh khúc. Bánh khúc làng Diềm đã có từ rất lâu đời và trở thành món bánh truyền thống vào những dịp quan trọng như những ngày lễ tết, hội hè, ngày rằm hay mùng một. Và cũng chỉ vào những dịp đặc biệt như vậy, bánh mới được làm để mời họ hàng, quan khách.
Nguyên liệu làm bánh khúc:
Sở dĩ gọi là bánh khúc vì nguyên liệu làm bánh chính là từ rau khúc.Điều đặc biệt nữa là người làng Diềm không trồng rau khúc mà chỉ thu hái rau khúc mọc tự nhiên ở ven ruộng, các bãi đất trống hay đất bồi ven sông, bởi muốn trồng thì rau cũng tự lụi, không thu hoạch được.
Cách chọn rau khúc làm bánh:
Rau khúc có hình dáng bên ngoài như cỏ dại với màu lá xanh bàng bạc, phủ lớp phấn trắng bên trên.Những cây rau khúc được chọn để làm bánh khúc là những cây nhỏ bản, dày bụ và đã ra hoa, có như vậy mới làm nên hương vị bánh khúc đặc trưng.Cũng có những nơi đem lá khúc phơi khô, nghiền bột để dùng khi hết mùa rau, tuy nhiên rau khúc tươi vẫn thơm và ngon hơn so với rau khúc đã phơi khô.
Cách thực hiện:
Rau khúc sau khi hái về sẽ được đem sơ chế, rửa sạch, băm nhỏ rồi bỏ vào nồi luộc sôi, rồi chắt bỏ phần nước, chỉ lấy phần rau chín.Tiếp đến, người ta đem phần rau đó giã nhuyễn cùng với bột gạo tẻ Kháng Dân để làm vỏ bánh.Loại gạo này rất phù hợp để làm bánh vì nó đủ độ kết dính mà lại không quá dẻo.Từ hai màu trắng – xanh của bột và rau khúc, cứ giã nhịp nhàng cho đến khi nắm bột mịn chuyển màu xanh nhạt đều mịn là được.
Video đang HOT
Làm nhân bánh:
Nhân bánh khúc làng Diềm có nhiều nét khá giống với bánh chưng vì cũng có đỗ xanh đồ chín giã nhỏ, hạt tiêu thơm phức và thịt ba chỉ thái nhỏ.Điểm khác biệt duy nhất là người ta cho thêm chút tóp mỡ băm nhỏ trộn đỗ xanh để tăng vị béo ngậy khi ăn. Khi đã có vỏ bánh, có nhân rồi sẽ tiến hành nặn bánh.
Lấy một nắm bột nhỏ, dàn đều và mỏng rồi gắp nhân bỏ vào giữa, nặn thành hình tròn hoặc hình tai voi tùy thích.Dù nặn thế nào thì điều quan trọng nhất vẫn là vỏ phải mỏng đều và không bị lộ nhân.Bánh sau khi nặn xong được xếp ra mâm, đun sôi nước rồi bỏ vào nồi hấp tương tự như đồ xôi, nếu thích lúc này có thể rắc lớp gạo nếp đã ngâm kỹ thành lớp áo bánh bên ngoài.Tuy nhiên, bánh khúc làng Diềm mời khách đến chơi thường bỏ qua bước này để thấy được lớp áo màu xanh thẫm đặc trưng rau khúc.
Nhân bánh khúc khá giống nhân của bánh chưng
Thưởng thức món bánh khúc làng Diềm:
Bánh khúc khi còn nóng hổi là thơm ngon nhất. Lúc này lớp vỏ bánh bóng mọng bốc hơi nghi ngút, khách vừa thổi vừa ăn để cảm nhận hương thơm, bùi của lá khúc cùng vị ngậy béo của nhân đỗ thịt.Chiếc bánh khúc chính là sự kết hợp hoàn hảo các sản vật đặc trưng của làng Diềm, mang đến hương vị độc đáo, hấp dẫn mà cũng rất đặc trưng, không dễ gì trộn lẫn.Với bánh khúc làng Diềm, người ăn sẽ không cảm thấy ngán, ăn đến 4-5 chiếc mà vẫn muốn ăn thêm nữa. Bởi thế, nhiều người sau khi ăn xong phải mua thêm để làm quà và mang về ăn dần khi nhớ. Bánh hấp xong để nguội có thể bảo quản trong tủ lạnh trong vòng một tháng, khi ăn đem hấp lại hương thơm sẽ vẫn còn nguyên vẹn.
Thưởng thức món bánh khúc làng Diềm
Nếu có dịp về với làng quan họ này các bạn cũng đừng quên thưởng thức món bánh khúc làng Diềm này nhé!
Về làng Nôm ăn bánh tày
Miếng bánh nhỏ xinh, vừa miếng cắn, trông như một lát sushi kiểu Nhật, với mềm - ngọt - ngậy của nếp - đậu - đường - mỡ hòa quyện, khiến vị giác tôi bừng tỉnh bởi chưa từng ăn qua thứ bánh nào nguyên liệu giản đơn mà lại ngon rền đến thế.
Tìm về làng Nôm, thuộc Đại Đồng, Văn Lâm, Hưng Yên - một làng cổ thanh bình của toàn vùng Bắc bộ, đúng ngày họp chợ của làng, cũng là một dịp đặc biệt. Chợ Nôm, tương truyền hình thành từ thời nhà Lê, và cho đến giờ vẫn lưu giữ lệ làng với lối họp chợ khác biệt khi chỉ mở vào những ngày trong tháng có số cuối là 1, 4, 6, 9.
Khám phá chợ phiên làng Nôm, cả chợ có hai tiệm bán bánh lá, với đủ loại quen thuộc, từ bánh tẻ, bánh nếp, bánh chưng, bánh giò, bánh chay, bánh gio, bánh khúc... riêng với loại bánh lá cỡ ngón chân cái, dài khoảng gang tay, được gọi là bánh tày thì cả chợ chỉ có tiệm cô Thủy bán.
Hỏi chuyện, mới biết đây là món đặc sản chỉ có ở làng Nôm, xưa kia dịp trọng đại, lễ tết, người làng Nôm mới gói bánh này. Cô Thủy cho hay: "Độ 5 năm trở lại đây, tôi nhớ lại cách thức của các cụ ngày xưa, nên gói lại bánh tày, đem ra chợ phiên bán kiếm ít đồng rau đồng đậu. Cái bánh này gói cầu kỳ lắm, không dễ như bánh chưng, bánh lá khác".
Quầy bánh tày cô Thủy ở chợ Nôm, Hưng Yên.
Rời chợ Nôm, đi vào sâu trong làng, hỏi chuyện các cụ cao niên, mọi người đều say sưa kể về món bánh tày. Ngày xưa, thời hưng thịnh, trong mâm cỗ cúng đình của làng Nôm, có ba thứ không thể thiếu là giò cây, bánh tày, chả hoa. Thế rồi qua nhiều thăng trầm, những tinh hoa ấy dần mai một, giò cây và chả hoa giờ đã thất truyền, duy món bánh tày vẫn tồn tại, nhưng cũng không nhiều người làng có thể làm được. Cụ Tạ Đình Hùng nay đã ngoài 80, là người hiếm hoi lưu giữ cách làm bánh theo nguyên bản.
Đến nhà cụ Tạ Đình Hùng, cụ vui vẻ tiếp chuyện: "Từ khi lớn lên tôi đã được các cụ cho ăn bánh này, đến năm 10 tuổi các cụ cho tập gói bánh, và cứ thế gói đến giờ". Tìm hiểu về lịch sử làng Nôm, cụ Hùng cho biết thành hoàng làng là thánh Tam Giang, một vị danh tướng, ngày xưa có công chiêu mộ binh lính từ khắp nơi, về đóng trại ở rừng thông, thuộc phần đất của làng, rồi lập ấp, làng phát triển từ đó.
Đây cũng là lý do làng Nôm hiện có đến 16 dòng họ, với các họ lớn như Nguyễn, Đào, Phùng, Lê, Tạ, Đỗ... Mỗi dòng họ lại có một nhà thờ họ được xây dựng khang trang, cổ kính, nằm dọc trên đường làng, tạo cho làng Nôm một vẻ đẹp khác biệt, thanh bình và còn lưu giữ nhiều nét nguyên sơ so với các làng cổ khác ở Bắc bộ.
Một nồi bánh tày ngon, rền, phải nấu trên năm tiếng liên tục.
Không ai nhớ lịch sử hình thành bánh tày làng Nôm, nhưng có một thuyết giải khá hợp lý rằng ngày xưa, khi danh tướng Tam Giang khiển quân đánh giặc, để binh sĩ có được sức khỏe chiến đấu dài ngày, người làng Nôm làm ra món bánh tày, thực phẩm tiện lợi để binh lính, quan quân dễ dàng cầm theo trong các đợt hành quân. Bánh tày nhỏ hơn bánh tét, rất vừa tay để có thể dễ dàng cầm ăn trong lúc di chuyển. Độ đường, mỡ, đậu, nếp trong bánh lại rất cân bằng, nhanh chóng giúp binh lính tăng thêm sức chiến đấu.
Để hiểu cách làm món bánh tày làng Nôm, cụ Tạ Đình Hùng đồng ý giúp làm lại một mẻ bánh tày theo cách thức cụ thực hiện từ hơn 70 năm về trước. Nhìn chiếc bánh nhỏ gọn, chỉ ấn tượng với chiều dài hơn 30cm, tưởng dễ dàng thực hiện, nhưng bắt tay vào việc, mới thấy ở đó sự cầu kỳ, tinh tế trong từng chi tiết nhỏ.
Phần nhân bánh được lớp nếp phủ đều, phải thật khéo tay mới làm được.
Bánh gồm nguyên liệu chính là nếp ngon, xưa người làng Nôm dùng nếp cái hoa vàng, đậu xanh bóc vỏ, đường kính, mỡ thỏi. Với tỷ lệ nguyên liệu đồng đều, 1 cân nếp, 1 cân đường, 1 cân đậu, 1 cân mỡ cho ra 10 bánh. Bánh tày làm theo các bước: Nếp đem ngâm 3 tiếng. Đậu xanh ngâm 5 tiếng rồi nấu chín như nấu cơm, xong đem giã mịn, trộn tiếp đường kính vào, xào nhanh trên lửa cho thật khô. Phần xào đậu khó nhất trong khâu nguyên liệu, nếu không nhanh tay, đậu dễ bén nhiệt, cháy khét do có đường. Phần mỡ thỏi, mỡ thăn chọn mua có độ dài tương đương một cái bánh (hơn 30cm) để khi cắt thành dải dễ dàng.
Riêng công đoạn ngâm đậu, nếp, xào đậu, cắt mỡ làm nhân, mất một ngày trời. Đến ngày thứ hai dành cho phần gói bánh. Mỗi bánh sử dụng 2 - 3 lá dong, lá đầu dài suốt chiều dài bánh, úp lòng lá ra ngoài, lá trong làm ngược lại cho hai lưng lá đấu nhau, đổ lên lá một chén gạo, dàn đều, xong lấy khuôn ống tre chẻ đôi, miết đậu xanh vào hai nửa, kẹp giữa là dải thịt mỡ to bằng ngón trỏ, cắt dài bằng bánh, đặt lên lớp nếp.
Cái khó của việc gói bánh, là công đoạn giũ tay nhanh gọn sao cho lớp nếp bám đều quanh nhân, nếu tay gói không khéo, khi bánh thành phẩm thì nhân đi đằng nhân mà nếp ra đằng nếp. Phần việc này đòi hỏi người khéo tay, kinh nghiệm và thuần thục mới làm được bánh tày đẹp.
Một buổi gói bánh tày ở nhà cụ Tạ Đình Hùng.
Vừa gói bánh tày, cụ Hùng đưa ra một so sánh: "Nom cái bánh bé thế, nhưng lâu gấp đôi so với cái bánh chưng nặng hơn một cân. Mỗi bánh chưng tôi gói chỉ khoảng hai phút, bánh tày phải 5 - 6 phút. Nhọc công như vậy nên ở làng giờ chẳng ai làm, tôi cũng thường chỉ vào dịp lễ tết và ngày hội làng 12.1 cúng đình, tặng cho con cháu thôn xóm thôi, chứ mỗi lần làm vất vả lắm cháu ạ".
Bánh gói xong, đem luộc như bánh chưng trong năm tiếng đồng hồ. Suốt năm tiếng ấy, nồi bánh không được để vơi nước, và phải căn lửa đều. Bánh chín, được vớt nhúng ngay vào nước lạnh, rửa qua, đem để khoảng hai tiếng cho nguội hẳn rồi dùng tay lăn qua lại vài lần cho bánh thêm tròn.
Bánh được cắt thành từng lóng nhỏ, vừa miếng cắn, lớp nếp bao quanh nhân tròn xoe, đều đặn. Nếp chín rền, ngọt ngậy nhờ đường, mỡ, đậu... ăn no mà không ngán. Trước lúc chia tay, cụ Hùng vui vẻ: "Bánh tày trước chỉ có người làng Nôm ăn, mỗi năm gói nhiều cũng chỉ đủ cho trong làng, sau này con cháu đi xa, mỗi đứa mỗi nơi, khi về nó cứ hay bảo gói để làm quà biếu, người ngoài mới biết đến bánh tày đấy!".
Cách làm bánh khúc ngon chuẩn vị Hà thành, dẻo thơm nóng hổi ai thử cũng mê Bạn hoàn toàn có thể tự làm bánh khúc tại nhà với cách làm bánh khúc chuẩn vị Hà Nội dưới đây, hãy cùng tham khảo nhé! Bánh khúc là một món bánh truyền thống dân dã của người dân miền Bắc có hương vị thơm ngon, lạ miệng. Bánh khúc được làm từ lá khúc với nhân đậu xanh và thịt heo....