Bài học từ chuẩn nghề nghiệp giáo viên ở Úc
Sau khi được Hội đồng Bộ trưởng MCEECDYA thông qua, Viện lãnh đạo trường học và sư phạm Úc ( Australian Institute for Teaching and School Leadership – AITSL) đã ban hành Bộ chuẩn nghề nghiệp giáo viên ( Australian Professional Standards for Teachers) vào tháng 2/2011.
ảnh minh họa
Đánh giá giáo viên trên 3 mặt
Năng lực của người giáo viên là nguồn lực quan trọng nhất trong giáo dục. Nó ảnh hưởng nhiều nhất tới quá trình học tập của học sinh, nhiều hơn bất cứ một chương trình hay chính sách giáo dục nào.
Trong Hợp tác quốc gia về cải tiến chất lượng giáo viên và Bản tuyên bố Melbourne về mục tiêu giáo dục cho thanh thiếu niên Úc, việc nâng cao chất lượng giáo viên được coi là một cải cách cần thiết trong cải thiện chất lượng học sinh và đảm bảo hệ thống giáo dục mang đẳng cấp quốc tế.
Xuất phát từ thực tiễn trên, từ năm 2009 đến 2010, dưới sự chỉ đạo của Hội đồng Bộ trưởng Giáo dục, phát triển nhi đồng và thanh thiếu niên, nhóm Chuẩn quốc gia của Hội đồng cấp cao này chịu trách nhiệm xây dựng và phát triển Chuẩn nghề nghiệp cho giáo viên.
Theo TS Tôn Quang Cường – Phó chủ nhiệm khoa phụ trách Khoa Sư phạm (Trường ĐH Giáo dục, ĐHQG Hà Nội) – Chuẩn nghề nghiệp giáo viên đươc xây dưng và phát triển dựa trên cơ sở thực hiện các hoạt động nghề nghiệp đặc thù, sự gắn kết mật thiết giữa những hiểu biết, khả năng thực hiện hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ, quá trình phát triển cá nhân và giá trị nghề nghiệp.
Bộ chuẩn cung cấp cơ sở cho mọi giáo viên tự đánh giá về năng lực của bản thân, giúp định hướng phát triển nghề nghiệp, nâng cao năng lực thực hành nghề, đóng góp cho sự chuyên nghiệp hóa trong giảng dạy, giáo dục và tạo ra vị thế tích cực của nghề trong xã hội.
Chuẩn nghề nghiệp giáo viên của Úc chia theo bốn giai đoạn, được thể hiện trong từng lĩnh vực hoạt động chức năng, từng giai đoạn phát triển nghề nghiệp của giáo viên từ khi mới vào nghề (Graduate); thành thạo nghề (Proficient); có uy tín trong nghề (Highly Accomplished); dẫn dắt và lãnh đạo chuyên môn (Lead).
Cấu trúc Bộ chuẩn này đánh giá trên 3 mặt: kiến thức chuyên môn; thực hành nghề nghiệp và sự tham gia nghề nghiệp; gồm 7 tiêu chuẩn, 37 tiêu chí, 148 chỉ báo (dấu hiệu mô tả) bao phủ toàn bộ các khía cạnh công việc của giáo viên trong nhà trường trong các giai đoạn phát triển nghề nghiệp cá nhân.
Về kiến thức chuyên môn có 2 tiêu chuẩn để đánh giá là: Hiểu học sinh và hiểu học sinh học như thế nào; Hiểu nội dung và phương pháp giảng dạy.
Về thực hành nghề nghiệp có 3 tiêu chuẩn để đánh giá là: Xây dựng giáo án và thực hiện những phương pháp dạy và học hiệu quả; Tạo ra và duy trì môi trường học tập an toàn và có sự hỗ trợ; Đánh giá, cung cấp phản hồi và báo cáo về quá trình học tập của học sinh.
Về sự tham gia nghề nghiệp có 2 tiêu chuẩn để đánh giá: Tham gia học tập bồi dưỡng chuyên môn; Tham gia nghề nghiệp với đồng nghiệp, cha mẹ học sinh và với cộng đồng.
Video đang HOT
Khung chuẩn hữu ích cho các bên liên quan đến giáo dục
Chi tiết các tiêu chuẩn, TS Tôn Quang Cường cho biết: Về kiến thức chuyên môn, tiêu chuẩn 1 tập trung vào việc đánh giá năng lực hiểu về thể chất, xã hội, sự phát triển trí tuệ và đặc điểm tính cách của học sinh; hiểu về khả năng học tập; hiểu nền tảng ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo và kinh tế xã hội của học sinh; có chiến lược giảng dạy cho học sinh dân tộc thiểu số, hải đảo; có năng lực phân hóa trong giảng dạy để đáp ứng được nhu cầu học tập đa dạng của học sinh; có chiến lược giáo dục hòa nhập, hỗ trợ cho học sinh khuyết tật.
Tiêu chuẩn 2 đánh giá năng lực hiểu nội dung và chiến lược giảng dạy trong lĩnh vực chuyên môn mà người giáo viên đảm nhận; lựa chọn nội dung và tổ chức dạy học; hiểu về chương trình giáo dục và các phương pháp đánh giá; chiến lược về dạy chữ và số; năng lực công nghệ thông tin và truyền thông (ICT).
Về thực hành nghề nghiệp, tiêu chuẩn 3 đánh giá năng lực xây dựng mục tiêu học tập mang tính thử thách; xây dựng và cấu trúc chương trình; sử dụng các chiến lược giảng dạy; lựa chọn và sử dụng học liệu; giao tiếp hiệu quả trong lớp học; đánh giá và nâng cao chương trình dạy học; thu hút sự tham gia của cha mẹ học sinh (người bảo hộ) vào quá trình giáo dục.
Tiêu chuẩn 4 đánh giá năng lực hỗ trợ học sinh tham gia đầy đủ lớp học; quản lý các hoạt động trong lớp học; quản lý những hành vi có tính thách thức; duy trì sự an toàn của học sinh; sử dụng ICT một cách an toàn, trách nhiệm và có đạo đức.
Tiêu chuẩn 5 đánh giá về năng lực đánh giá học tập của học sinh; cung cấp những phản hồi về học tập của học sinh; đưa ra những đánh giá mang tính so sánh và nhất quán; đọc hiểu dữ liệu của học sinh và báo cáo kết quả học tập của học sinh.
Về sự tham gia nghề nghiệp, tiêu chuẩn 6 đánh giá năng lực tham gia học tập bồi dưỡng chuyên môn. Tiêu chuẩn này tập trung vào đánh giá việc xác định và lên kế hoạch cho việc rèn luyện chuyên môn; tham gia học tập nâng cao chuyên môn và cải thiện thực hành giảng dạy; tham gia cùng với đồng nghiệp cải thiện chuyên môn, nghiệp vụ; áp dụng vào nâng cao chất lượng học tập của học sinh.
Tiêu chuẩn 7 đánh giá mức độ đáp ứng về đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp; Tuân thủ theo những yêu cầu, quy định của pháp luật và tổ chức; sự tham gia với cha mẹ học sinh và người bảo hộ; sự tham gia trong cộng đồng giáo dục.
“Bộ Chuẩn là một khung chuẩn hữu ích cho các bên liên quan đến giáo dục như: giáo viên, lãnh đạo nhà trường, các tổ chức giáo viên, hiệp hội nghề nghiệp và cộng đồng. Các nguồn thông tin phục vụ đánh giá giáo viên theo Chuẩn nghề nghiệp giáo viên dựa trên bản tự đánh giá của giáo viên, các minh chứng tương ứng, và ý kiến đánh giá của lãnh đạo, đồng nghiệp và cha mẹ học sinh” – TS Tôn Quang Cường cho hay.
“Ở Việt Nam, năng lực giáo viên cũng là một trong những vấn đề giáo dục được quan tâm của toàn xã hội vì tầm quan trọng của nó với sự nghiệp phát triển đất nước trong xu thế quốc tế hóa và toàn cầu hóa cũng như là yếu tố cốt lõi tạo ra sự phát triển bền vững cho tất cả các cơ sở giáo dục.
Từ Chuẩn nghề nghiệp giáo viên của Úc, chúng tôi nhận thấy, cùng với sự thay đổi nhanh chóng về điều kiện kinh tế, xã hội và sự đổi mới căn bản và toàn diện chương trình giáo dục phổ thông, việc xây dựng Chuẩn nghề nghiệp giáo viên của Việt Nam cần đổi mới để phù hợp với thông lệ quốc tế, trong xu thế quốc tế hóa và toàn cầu hóa là thực sự cần thiết”.
Theo Giaoducthoidai.vn
Kiến thức tích hợp môn Khoa học Tự nhiên: Đảm bảo tính khoa học và nhất quán
Trong dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, môn Khoa học tự nhiên (KHTN) là môn học mới (so với chương trình giáo dục hiện hành), là môn học tích hợp phát triển từ môn "Tìm hiểu tự nhiên" ở các lớp 4, 5.
ảnh minh họa
KHTN là môn học bắt buộc ở các lớp 6, 7, 8 và 9 của THCS và là môn tự chọn 2 ở các lớp 10 và lớp 11 của THPT. GD&TĐ đã có cuộc với PGS.TS Mai Văn Hưng, Chủ nhiệm bộ môn KHTN, Trường ĐH Giáo dục (ĐHQG Hà Nội) về những đổi mới trong dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông mới môn KHTN.
Môn học có tính ưu việt
Thưa PGS.TS Mai Văn Hưng, ông đánh giá như thế nào về tính ưu việt của môn KHTN trong chương trình PT mới?
Học để làm gì, đó là câu hỏi có rất nhiều đáp án, trong đó "học để thích nghi với môi trường sống" là một đáp án rất quan trọng, mà muốn thích nghi thì con người cần phải giải quyết được những vấn đề do môi trường sống đặt ra, trong đó có môi trường tự nhiên.
Tuy nhiên, các vấn đề trong môi trường sống tự nhiên không thể sử dụng kiến thức của một môn học riêng rẽ nào có thể giải quyết được triệt để và thấu đáo. Nếu môn KHTN bao gồm các kiến thức tích hợp bởi Vật lý, Hóa học, Sinh học và Khoa học trái đất chính được triển khai thành công thì nó có tính ưu việt hơn hẳn các đơn môn trong việc giải quyết vấn đề "học để thích nghi".
Trong môn KHTN, những nguyên lý/khái niệm chung nhất của thế giới tự nhiên được tích hợp xuyên suốt các mạch nội dung, PGS đánh giá như thế nào về vấn đề tích hợp trong môn học này?
Nguyên lý và khái niệm là những nội dung đòi hỏi tính thống nhất, chỉnh thể và chính xác rất cao. Trong KHTN, điều này có thể coi như chân lý, nếu ở mỗi cấp học các nguyên lý hay khái niệm lại thay đổi khi nói về cùng một sự vật hay hiện tượng thì điều đó là không được.
Vì thế trong chương trình môn KHTN, các nguyên lý hay khái niệm được trình bày thống nhất xuyên suốt các mạch nội dung là rất cần thiết vừa đảm bảo tính khoa học vừa khẳng định tính nhất quán trong tư duy nhận thức.
Sự kết hợp nhuần nhuyễn lý thuyết với thực nghiệm trong chương trình môn học KHTN được đánh giá cao, theo PGS, cần phải đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá như thế nào trong quá trình đổi mới?
Học kiến thức gắn liền với thực nghiệm khoa học về các kiến thức, trên cơ sở đó vận dụng kiến thức học được vào thực tiễn là xu thế hiện nay trên phạm vị toàn cầu. Chúng ta không thể đứng ngoài tiến trình lịch sử này của nhân loại. Để phù hợp với cách tiếp cận này, chúng ta cần có một số thay đổi như sau: Kiến thức môn học phải chỉ ra được việc học kiến thức này gắn với thực tiễn cuộc sống như thế nào; Học sinh cần được trực tiếp thực nghiệm trên lớp và thực hành tại địa phương những kiến thức học được.
Việc kiểm tra đánh giá cũng cần phải đổi mới theo hướng trả lời cho câu hỏi "học cái đó để làm gì?" hoặc tự mình phát hiện ra vấn đề và giải quyết vấn đề trong thực tiễn chứ không đơn thuần là trả lời câu hỏi của thầy một cách thụ động.
Cùng với các môn Toán học, Công nghệ và Tin học, môn KHTN góp phần thúc đẩy giáo dục STEM (Science, Technology, Engineering, Mathematics) - một trong những hướng giáo dục đang được quan tâm phát triển trên thế giới. Theo PGS, hướng triển khai trong các trường đã được thực hiện như thế nào?
Giáo dục STEM đúng là đang được quan tâm trên phạm vi toàn cầu và không chỉ STEM mà còn là STEAM (Science, Technology, Engineering, Art Mathematics). Thông qua việc liên kết với Hội đồng Anh, chúng ta đã triển khai tại nhiều trường phổ thông đặc biệt là các trường THCS. Cuộc thi Sáng tạo Khoa học & Kĩ thuật (ISEF) các cấp hiện nay chính là một trong những kết quả hiện thực hóa của giáo dục STEM.
Việc triển khai mở rộng mô hình này đang được Bộ GD&ĐT quan tâm. Tuy nhiên, chúng ta cần có những chiến lược dài hơi, những đầu tư khoa học hơn nữa, bên cạnh đó cần có những kiểm tra đánh giá thực sự khách quan thì STEM mới mang lại hiệu quả thiết thực với thực tiễn của Việt Nam.
Sáng tạo trong tiếp cận dạy và học
Theo PGS, chương trình dự thảo môn học có phù hợp với học sinh hay không?
Chương trình dự thảo môn học về nội dung kiến thức có sự kế thừa của chương trình hiện hành, có những nội dung cập nhật với sự phát triển của khoa học nên về cơ bản là phù hợp với học sinh hiện nay. Tuy nhiên, các nội dung "Quan điểm xây dựng chương trình", "Mục tiêu chương trình", "Yêu cầu cần đạt", "Nội dung giáo dục", "Phương pháp giáo dục" trong dự thảo còn rườm rà, lặp lại hay giải thích
Ví dụ đoạn: "Quan điểm xây dựng chương trình: "Chương trình môn KHTN cụ thể hóa những mục tiêu và yêu cầu của Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, bao gồm: (i) Định hướng chung cho tất cả các môn học như: Quan điểm, mục tiêu, yêu cầu cần đạt, kế hoạch giáo dục và các định hướng về nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục và đánh giá kết quả, điều kiện thực hiện và phát triển chương trình; (ii) Định hướng xây dựng chương trình môn KHTN ở cấp trung học cơ sở" nên bỏ vì các đề mục này được lặp lại trong các phần nhỏ sau đó.
Để chương trình có thể phát huy được định hướng phát triển năng lực người học, PGS có đề xuất gì?
Để chương trình có thể phát huy được định hướng phát triển năng lực, tôi có một số đề xuất sau:
Thứ nhất, cần phân biệt rõ "Năng lực" với "Kĩ năng" tránh sự chồng chéo khi sử dụng các thuật ngữ này, nên chăng định nghĩa đơn giản và mở hơn. "Năng lực là khả năng thích ứng của con người với môi trường sống". Điều này giúp cho giáo viên có định hướng vĩ mô, từ đó họ có sự sáng tạo trong cách tiếp cận dạy và học theo hướng phát triển năng lực của chương trình.
Thứ hai, do có các nội dung kiến thức và phương pháp mới nên cần đào tạo lại (bồi dưỡng) các giáo viên trên diện rộng trực tiếp từ các trường đại học chuyên ngành có uy tín.
Thứ ba, việc dạy tích hợp liên môn thực sự là một thách thức lớn nhất đối với giáo viên hiện nay. Vì thế nội dung kiến thức trong sách giáo khoa cần được trình bày theo hướng tích hợp, thực sự đây cũng là thách thức đối với các tác giả viết sách hiện nay.
Thứ tư, cần có những tập huấn cho giáo viên nhằm chỉ rõ về cách dạy các môn tích hợp, cấu trúc các nội dung tích hợp, phương pháp thiết kế bài dạy tích hợp...
Thứ năm, việc xác định cho giáo viên chuẩn bị các điều kiện cơ sở vật chất phù hợp và linh hoạt với các mức độ yêu cầu dạy và học khác nhau tùy theo địa phương.
Theo Giaoducthoidai.vn
Giáo viên có đáp ứng chương trình phổ thông mới? Nỗi lo lớn nhất khi triển khai chương trình phổ thông mới là chất lượng giáo viên, việc thiếu, thừa giáo viên ở nhiều môn học. ảnh minh họa Theo dự thảo chương trình phổ thông mới do Bộ GD&ĐT vừa công bố để lấy ý kiến, năm 2019-2020 sẽ bắt đầu áp dụng cho cấp học đầu tiên là tiểu học, cụ...