Bác sĩ và những trăn trở về trẻ vị thành niên nhiễm HIV
Đối với những đứa trẻ bình thường vốn đã dễ bị tổn thương, khi mang trong mình bệnh HIV, trẻ càng trở nên dè dặt, xa lánh cộng đồng, người thân, dẫn đến có thể bỏ điều trị.
Đây cũng là một trong nhiều trăn trở, lo âu của các y bác sĩ điều trị cho các bệnh nhi, nhất là khi các em bước vào lứa tuổi vị thành niên, nguy cơ lây nhiễm cho những người khác càng cao.
Nguy cơ lây nhiễm HIV từ quan hệ đồng tính nam ở lứa tuổi học sinh.
Dang dở hành trình điều trị HIV
“Uống thuốc xong con cũng thấy bình thường, tự tin hơn chút xíu. Vì uống vào buổi tối không ai biết, nếu uống buổi sáng thì sẽ có người hỏi. Khi giao tiếp với mọi người cũng thấy thoải mái, không bị kỳ thị”.
Chia sẻ của bệnh nhi T.T.Hân (15 tuổi) khiến chị Phạm Thị Lụa, nhân viên xã hội, khoa Nhiễm – Thần kinh, Bệnh viện Nhi đồng 1 xúc động mỗi lần phát thuốc điều trị HIV cho các em. Bố mẹ Hân đã qua đời vì mắc HIV/AIDS, em ở với gia đình chú ruột. May mắn được quan tâm, Hân kiên trì uống thuốc ở Bệnh viện Nhi đồng 1 từ nhiều năm nay và được các bác sĩ tư vấn tâm lý để hòa nhập cộng đồng.
Nhân viên y tế trao đổi với trẻ vị thành niên khi phát thuốc điều trị HIV.
Thế nhưng không phải bệnh nhi nào cũng được như Hân. Chị Phạm Thị Lụa cho biết, “bỏ điều trị” là điều mà các y bác sĩ chăm sóc cho trẻ có HIV lo lắng nhất, vì sẽ dẫn tới hàng loạt nguy cơ cho sức khỏe, như giảm miễn dịch, mắc nhiều căn bệnh, bị lờn thuốc, dẫn đến tử vong …
Video đang HOT
Theo chị Phạm Thị Lụa, khi mới phát hiện trẻ mắc HIV, các phụ huynh đưa con đi điều trị đều đặn, nhưng sau đó nản nên đi không đều và dần dần nhiều người đã bỏ cuộc. Các nhân viên xã hội, điều dưỡng phải tích cực tìm đấu mối liên hệ, từ việc lần theo địa chỉ khai báo, số điện thoại để trò chuyện, thuyết phục hoặc thông qua các nhóm đồng đẳng tuyên truyền, vận động phụ huynh đưa con em quay trở lại để uống thuốc.
Nhiều người cho hay do việc tái khám hàng tháng, uống thuốc hàng ngày phải đúng giờ nên đã làm ảnh hưởng đến công ăn việc làm, vì vậy một số gia đình lơ là, lâu dần bỏ điều trị. Có những trường hợp bỏ điều trị thời gian dài mới quay lại tái khám, đến lúc này tình trạng bệnh nhi đã trở nặng.
“Thứ nhất là ba mẹ bận rộn không chăm sóc con rồi gửi cho ông bà, ông bà không lo được, hoặc ba hoặc mẹ mất thì để cho ông bà, ông bà lớn tuổi không đưa đi được. Còn có trường hợp là ba mẹ không hợp tác, không muốn điều trị”, chị Lụa cho biết.
Nguy cơ gia tăng lây nhiễm HIV ở tuổi dậy thì
Tại Bệnh viện Nhi đồng 1, phòng khám ngoại trú dành riêng cho trẻ có HIV đầu tiên tại TP HCM được thành lập vào năm 2005. Hiện khoa Nhiễm – Thần kinh của bệnh viện đang điều trị cho 375 trẻ bị HIV, độ tuổi từ 1 tháng đến dưới 20 tuổi, là những trẻ lây nhiễm HIV từ bụng mẹ, hoặc bị xâm hại, vô tình mắc HIV, hoặc bị lây qua con đường quan hệ tình dục…
Theo bác sĩ Dư Tuấn Quy, Quyền trưởng khoa Nhiễm – Thần kinh, Bệnh viện Nhi đồng 1, khi đến tuổi dậy thì, tâm sinh lý của trẻ trở nên nhạy cảm hơn, nên khi biết bản thân mắc bệnh, nhiều trẻ thường rơi vào tâm trạng tiêu cực, sống bất cần đời. Đặc biệt nhiều em chia sẻ rằng cha mẹ cũng đã chết vì HIV nên không còn hy vọng sống, trở nên chán nản, sống buông thả, quan hệ tình dục sớm và lây nhiễm cho bạn tình.
Tại Bệnh viện Nhi đồng 1, các ca lây nhiễm HIV do quan hệ đồng giới nam gia tăng ở lứa tuổi học sinh. Từ đầu năm đến nay, có khoảng 4-5 trường hợp bệnh nhi mắc HIV do quan hệ đồng tính nam, chủ yếu là các em từ 14-15 tuổi. Đây là một tình trạng đáng báo động.
Bác sĩ Dư Tuấn Quy trăn trở về bệnh nhi HIV vị thành niên.
Theo bác sĩ Quy, việc điều trị cho trẻ vị thành niên nhiễm HIV gặp nhiều khó khăn do yêu cầu phải có người giám hộ và giấy tờ cá nhân của các em đều do gia đình giữ. Tuy nhiên, những trẻ này không dám công khai giới tính thật, quan hệ tình dục đồng tính lén lút cho đến khi nhiễm bệnh.
Vì vậy hầu hết khi mắc bệnh các em nhỏ đều không dám nói thật với gia đình, càng không cho nguyên nhân lây bệnh. Nhiều trẻ còn “dọa” bác sĩ là sẽ bỏ điều trị nếu bác sĩ liên hệ với gia đình. May mắn là cùng với bác sĩ còn có các nhóm giáo dục đồng đẳng cùng thực hiện công tác tuyên truyền, vận động và giúp đỡ các em. Sau quá trình điều trị tại bệnh viện, các em sẽ được chuyển về phòng khám dành cho người lớn có HIV tại các quận, huyện.
Một số trường hợp không có giấy tờ tùy thân nên tiếp tục được điều trị tại Bệnh viện Nhi đồng 1, sau đó được giới thiệu về các phòng khám đa khoa, được các nhóm đồng đẳng hỗ trợ. Với sự tài trợ của Tổ chức hợp tác phát triển y tế Việt Nam (HAIVN), Trung tâm dự phòng và kiểm soát dịch bệnh (CDC), bệnh viện cũng tổ chức hướng nghiệp, tư vấn cho các em.
“Có em thì mình dạy đầu tiên phải biết dự phòng, thời gian sau thì xem xét có hợp nhau hay không, mới tiến tới xa hơn. Với lại tuổi này chưa thể tiến tới hôn nhân, chưa thể kết hôn. Mình phải hướng nghiệp để các em học, nếu có yêu đương thì phải biết bảo vệ lẫn nhau, chứ đừng lây lan ra cộng đồng”, bác sỹ Quy nói.
Mục tiêu đặt ra là đến năm 2030, Việt Nam chấm dứt đại dịch HIV/AIDS. Song trước mắt vẫn còn nhiều thách thức, đáng lo ngại nhất là quan hệ tình dục đồng giới nam, đặc biệt là ở lứa tuổi vị thành niên. Ngoài việc tăng cường các hoạt động hỗ trợ người nhiễm HIV điều trị bệnh, hiện đã có thuốc dự phòng trước phơi nhiễm (gọi tắt là PrEP) đã được Tổ chức ý tế thế giới WHO đánh giá là hiệu quả.
Các chuyên gia khuyến cáo những người có nguy cơ lây nhiễm HIV cao như người nam quan hệ tình dục đồng giới; người chuyển giới nữ; người bán dâm; người tiêm chích ma túy; bạn tình của người nhiễm HIV… sử dụng để phòng ngừa lây nhiễm. Ngoài ra, việc không kỳ thị, phân biệt đối xử với người HIV cũng là một trong những yếu tố góp phần giảm thiểu lây nhiễm HIV./.
Nỗi sợ bị kỳ thị hơn cả cái chết của người phụ nữ nhiễm HIV từ chồng
Với người phụ nữ 32 tuổi, quê Hà Nam giờ đây căn bệnh HIV không còn đáng sợ như 16 năm trước. Chị không sợ chết, điều chị sợ nhất chính là sự kỳ thị.
16 năm trước, chị Hà (32 tuổi, Hà Nam) biết mình nhiễm HIV do lây từ chồng. Thời điểm đó như nhiều người khác, chị không hề biết gì về căn bệnh này. Năm 2006 chồng chị qua đời. Chị vẫn nhớ thời điểm đó, cả đám tang chỉ có 3 mẹ con vì ai cũng sợ, cũng kỳ thị với người bị HIV/AIDS. Sau đó thì ba mẹ con chị bị đuổi ra khỏi nhà.
Thậm chí đã có thời điểm chị nghĩ từ bỏ cuộc sống để hai con gái không bị dị nghị vì mẹ mắc căn bệnh thế kỷ. Lúc đó chị biết đến nhóm Hoa Hướng dương - một nhóm của các bà mẹ cũng mang H do lây từ chồng. Chị như tái sinh vì thấy mình được chia sẻ.
"Chúng tôi cùng nhau tiếp cận thuốc ARV, cùng tìm hiểu về các phác đồ điều trị. Giờ nói tới phác đồ nào, tôi có thể nói vanh vách", chị Hà nói.
Chị cùng 2 con lên Hà Nội thuê căn nhà nhỏ ở gần Bệnh viện Bạch Mai để lấy thuốc uống định kỳ. Hơn 10 năm qua, chị sống khỏe mạnh nhờ nguồn thuốc viện trợ được cấp phát tại Trung tâm Bệnh Nhiệt đới, Bệnh viện Bạch Mai.
Giờ đây với chị căn bệnh này không còn đáng sợ, điều đáng sợ nhất mà mỗi người bệnh giống như chị phải chịu đựng là sự kỳ thị. Chị không dám về quê, ngay cả khi Trung tâm Bệnh Nhiệt đới phải đóng cửa do Covid-19 vào tháng 3 vừa rồi. Khi đó, các bác sĩ tư vấn cho chị về quê lấy thuốc theo đúng tuyến. Nhưng vì sợ kỳ thị nên chị không về, mà nhờ các bác sĩ liên hệ đến trung tâm khác ở Hà Nội lấy thuốc.
Chị Hà là một trong 1.600 bệnh nhân HIV đang được Trung tâm Bệnh Nhiệt đới, Bệnh viện Bạch Mai quản lý và cấp phát thuốc điều trị.
Ông Đỗ Duy Cường, Giám đốc Trung tâm Bệnh Nhiệt đới, cho biết Bệnh viện Bạch Mai là trung tâm điều trị HIV với tỷ lệ người điều trị ARV có tải lượng virus dưới ngưỡng ức chế cao nhất cả nước, lên đến hơn 98%. Các loại thuốc mới, các phác đồ điều trị tân tiến giúp cho bệnh nhân hạn chế tới mức thấp nhất những ảnh hưởng tới sức khỏe và phòng tránh lây nhiễm.
Chia sẻ tại hội thảo mới đây hưởng ứng ngày Thế giới phòng chống HIV/AIDS ngày 1/12, ông Dương Đức Hùng, Phó Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai, cho biết từ một căn bệnh tưởng chừng như "bản án tử hình", người bệnh hoang mang không còn niềm tin vào cuộc sống, nay HIV/AIDS là một bệnh mạn tính điều trị duy trì như những căn bệnh mạn tính khác (đái tháo đường, cao huyết áp...). Sự kỳ thị xa lánh, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS vẫn còn song đã dần được cải thiện. Người bệnh đã hòa nhập tốt hơn với cuộc sống.
Dịch HIV/AIDS ở Việt Nam đã và đang từng bước được kiểm soát, tỷ lệ nhiễm trong cộng đồng dân cư dưới 0,26%. Tuy nhiên nhóm nguy cơ cao hiện nay tập trung chủ yếu trong nhóm đối tượng nam quan hệ tình dục đồng giới.
Theo ước tính của các chuyên gia, trong 15 năm qua, chương trình phòng, chống HIV/AIDS của Việt Nam đã giúp cho khoảng 500.000 người không bị lây nhiễm HIV và hơn 200.000 người không bị tử vong do HIV/AIDS.
"Việt Nam là một trong 4 quốc gia có chất lượng điều trị HIV/AIDS đứng hàng đầu thế giới, cùng với Anh, Đức và Thụy Sĩ. Với kinh nghiệm 30 năm phòng, chống HIV/AIDS cùng với những kết quả đã đạt được, mục tiêu chấm dứt dịch bệnh HIV/AIDS vào năm 2030 không còn xa", ông Hùng nhấn mạnh.
Một người nhiễm HIV được điều trị bằng thuốc ARV, tuân thủ điều trị tốt thì sau 6 tháng sẽ có tải lượng virus dưới ngưỡng phát hiện. Khi đó, họ sẽ không lây truyền HIV cho bạn tình qua quan hệ tình dục, làm giảm lây truyền từ mẹ sang con.
Những đứa trẻ được gọi bệnh bằng mã định danh "Em ơi, chuẩn bị tiếp nhận bệnh nhi B20 nhé" là câu nói rất dễ hiểu và quen tai ở khoa Nhiễm - Thần kinh, Bệnh viện Nhi đồng 1 (TPHCM). B20 là "mật mã" để đánh lạc hướng người ngoài ngành y, kể cả những bệnh nhi có HIV. Nhưng đó là nhân văn, là cách đảm bảo giữ bí mật riêng...