Anh ngã xuống khi tay còn nắm chắc lá cờ chỉ huy
Cưới vợ được 5 ngày, anh quay lại đơn vị tiếp tục làm nhiệm vụ. Một năm sau được về phép thì tiếng còi báo động vang lên, một tốp máy bay Mỹ tấn công vào thị xã Vinh lúc bây giờ và anh đã ngã xuống vì Tổ quốc.
Di ảnh liệt sĩ Phan Đăng Cát.
Anh Phan Đăng Cát lúc bấy giờ lao ra trận địa, chiến đấu cùng với anh em đại đội. Những giây phút giằng co với địch, anh bị thương ba lần và cuối cùng anh ngã xuống khi trên tay vẫn còn nắm một lá cờ đỏ sao vàng. Anh là một tấm gương tiêu biểu “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Tấm g ương anh dũng quả cảm
Ngược lại thời gian lịch sử, từ thất bại nặng nề trên chiến trường miền Nam Việt Nam, để đ.ánh lừa dư luận quốc tế, quân đội Mỹ đã dựng lên cái gọi là “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” nhằm bịa đặt, vu khống Hải quân Việt Nam tấn công tàu Hải quân Mỹ.
11h ngày 5/8, Tổng thống Mỹ Giôn – xơn xuất hiện trên truyền hình Mỹ, ra lệnh cho các lực lượng không quân tấn công miền Bắc Việt Nam trả đũa cho tàu Hải quân Mỹ bị tấn công tại Vịnh Bắc Bộ.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, một trong những sự kiện đã trở thành mốc son chói lọi, thể hiện tinh thần “Quyết đ.ánh – Quyết thắng” của dân tộc ta, đó là Chiến thắng trận đầu 5/8/1964.
Tìm hiểu lịch sử Trung đoàn 280 và đồng đội cùng tham gia trận đ.ánh ngày 5/8/1964 chúng tôi được biết liệt sĩ Phan Đăng Cát (sinh ngày 8/4/1941) tại xã Hưng Tân, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An – là người có công lớn trong chiến thắng trận đầu. Cùng với đó là những câu chuyện cảm động rơi nước mắt về tinh thần quả cảm quên mình vì nước, vì dân của người chiến sĩ trẻ t.uổi.
Những ngày đầu tháng 8 lịch sử này, chúng tôi được người em thứ 2 Phan Thái Dương xúc động kể lại câu chuyện.
Phan Đăng Cát là con trai cả trong một gia đình nông dân có 7 chị em. Nhập ngũ 1961, sau một thời gian được làm khẩu đội trưởng khẩu đội 4, Trung đội 2, Đại đội 138 pháo trung cao.
Năm 1963, anh lấy vợ người cùng xã ở t.uổi 23. 5 ngày sau đám cưới anh phải trở lại đơn vị. Đơn vị đóng cách nhà 20km, một năm trời anh không về thăm nhà, thăm vợ mới cưới. Những lá thư tay viết vội trong đơn vị để kịp báo cáo tình hình, hỏi thăm sức khỏe và không quên dặn dò người em thứ hai: “Em cố gắng học thật giỏi. Anh tin em sẽ trở thành nhà Toán học của nước nhà”.
Lúc bấy giờ có nhiều dấu hiệu dự báo không quân Mỹ sẽ đ.ánh phá miền Bắc. Đơn vị Phan Đăng Cát có nhiệm vụ bảo vệ thị xã Vinh lúc bấy giờ và phải thường xuyên trực chiến nên từ đó Phan Đăng Cát không có điều kiện về thăm gia đình, thăm vợ.
Đến ngày 5/8/1964, Phan Đăng Cát được đơn vị cho về nghỉ phép. Trưa hôm đó, sau khi ăn xong bữa cơm cùng anh em đơn vị, nhận giấy nghỉ phép và tiêu chuẩn quà phép, gói ghém ba lô, đang chuẩn bị rời đơn vị về quê thì tiếng còi báo động vang lên.
Một tốp máy bay địch tấn công vào thị xã Vinh với các mục tiêu: Kho xăng Hưng Hòa, cảng Bến Thủy và các trận địa pháo phòng không. Phan Đăng Cát đã trút bỏ ba lô, lao ra trận địa, chiến đấu cùng anh em Đại đội đ.ánh trả quyết liệt giặc Mỹ. Sau hơn 30 phút chiến đấu, hai chiến A.4D phải đền tội. Trận đ.ánh hôm đó quân và dân ta đã b.ắn rơi hai chiếc máy bay của quân đội Mỹ.
Video đang HOT
Trước khả năng máy bay địch sẽ mở đợt oanh kích mới, Phan Đăng Cát đã tình nguyện trả giấy phép không về quê nhà, chia quà phép cho anh em liên hoan rồi ra trực tiếp chỉ huy khẩu đội đ.ánh địch. (Tờ giấy phép đang được trưng bày ở Bảo tàng quân chủng Phòng không không quân Việt Nam).
Em trai thứ hai của Phan Đăng Cắt, ông Phan Đăng Dương, học tập tấm gương anh dũng Phan Đăng Cát tham gia ba sẵn sàng, trở thành một y sĩ phục vụ cho dân làng.
Đúng như dự đoán, 16h30′ cùng ngày, máy bay địch đ.ánh phá khu vực Vinh – Bến Thủy lần thứ hai. Đợt này, địch sử dụng 8 chiếc A.4D đ.ánh “trả đũa” các trận địa pháo cao xạ của ta. Qua trận đ.ánh đầu tiên, chúng phát hiện ra trận địa pháo trung cao của Đại đội 138 nằm ngay phía trước đội hình chiến đấu ở phía bờ Nam sông Lam, khả năng b.ắn máy bay thấp hạn chế, không có s.úng máy phòng không bảo vệ, các lực lượng phòng không khác ở bờ Bắc lại bố trí xa, khả năng chi viện hạn chế nên lần này chúng tập trung áp chế trận địa. Thủ đoạn của chúng là bay thấp, phóng rốc két và b.ắn đạn 20 ly vào trận địa, sau đó cất cao ngoặt nhanh ra biển để tránh đạn cao xạ. Trận địa Đại đội 138 bị trúng gần 100 quả rốc két, anh em pháo thủ thương vong khá nhiều. Tuy vậy, các anh vẫn kiên trì bám trận địa, bình tĩnh đ.ánh trả.
Phan Đăng Cát trong vai trò là khẩu đội trưởng, với lá cờ chỉ huy trên tay, mắt dõi theo từng chiếc máy bay địch để hạ quyết tâm chính xác b.ắn đúng thời cơ. Hai lần bị thương do mảnh rốc két, lần thứ nhất một mảnh găm vào cánh tay, lần thứ hai găm vào đùi anh tự băng bó vết thương.
Mặc dù đứng không vững nhưng Phan Đăng Cát vẫn tựa lưng vào công sự nén đau động viên chỉ huy đồng đội bình tĩnh tiếp tục chiến đấu. Lần bị thương thứ ba, quả rốc két nổ cạnh công sự, một mảnh găm vào bụng, nhưng anh vẫn dõng dạc hô lớn: “Tiếp tục chiến đấu để bảo vệ quê hương Bác, quyết đ.ánh đến cùng”.
Do vỡ vết thương quá nặng, m.áu ra nhiều nên Phan Đăng Cát đã tựa vào thành hào anh dũng hy sinh ngay trên trận địa của quê hương Bác Hồ khi trên tay còn nắm chắc lá cờ chỉ huy.
Lá cờ Phan Đăng Cát cầm chỉ huy trong trận đ.ánh ngày 5/8/1964 hiện đang được lưu giữ trang trọng trong Bảo tàng lịch sử quân đội nhan dân Việt Nam như một chứng tích oai hùng, kiên cường của bộ đội cụ Hồ.
Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh
Anh mãi mãi ra đi trong chiến công đầu ngày 5/8/1964. Khẩu đội 8, Trung đội 2, Đại đội 138 và một số đại đội của Trung đoàn 280 trong trận chiến đấu đó đã b.ắn rơi 3 máy bay Mỹ góp phần cùng chiến thắng chung của quân dân miền Bắc hạ 8 chiếc trong ngày đầu tiên đế quốc Mỹ mở cuộc tiến công bằng không quân vào miền Bắc nước ta.
Trong trận đ.ánh đó, 5 người hy sinh, Liệt sĩ Phan Đăng Cát được Bác Hồ truy tặng Huân chương chiến công hạng Nhất, bốn liệt sĩ còn lại được truy tặng Huân chương chiến công hạng Nhì. Năm 1967, Phan Đăng Cát là tấm gương hy sinh dũng cảm được nêu gương trong quân đội để các chiến sĩ học tập và biết ơn.
Ngày 25/7/2014, kỷ niệm 50 năm chiến thắng trận mở đầu, 6 đồng đội ở Thanh Hóa vượt đường xa vào thăm viếng mộ liệt sĩ Phan Đăng Cát rơm rớm nước mắt kể lại kỷ niệm trong quân đội: “Ngày ấy, chúng tôi mới vào lính, những bữa cơm đầu trong quân đội nhìn nhau ăn, ngại ngùng chẳng dám gắp thịt, chỉ gắp rau hay ăn cơm không. Anh Cát nhiều t.uổi hơn, biết được nên trong mỗi giờ ăn luôn gắp đều thức ăn cho mỗi đồng chí. Chúng tôi luôn xem anh Cát như người anh trai trưởng, tin tưởng và thương anh Cát”. Câu chuyện chỉ dừng lại ở đó, các đồng đội lặng đi khi dâng hương lên bàn thờ đồng đội, người anh trưởng của mình.
Tấm gương hy sinh của liệt sĩ Phan Đăng Cát luôn là bài học giáo dục truyền thống quý giá cho thế hệ trẻ hôm nay. Trong lòng người dân Việt Nam, Phan Đăng Cát vẫn còn sống mãi, tên anh luôn được nhắc đến trong các trang viết về lịch sử Quân chủng PK-KQ, trong các dịp kỷ niệm chiến thắng trận đầu 5/8/1964 hàng năm. Anh là tấm gương sáng chói lọi của người chiến sĩ PK-KQ Việt Nam dũng cảm, kiên cường trước bom đạn đ.ánh phá của không quân Mỹ, góp phần làm nên biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
Tâm Nhi – Nguyễn Duy
Theo dantri
Trận đ.ánh nửa thế kỷ trước trong ký ức người lính Hải quân
"Đó là một trong những giai đoạn khó quên của cuộc đời lính chúng tôi. Cùng với quân dân cả nước, lính Hải quân tự hào đã góp một phần trong chiến thắng đầu tiên ấy", người cựu binh Hoàng Sỹ Hồng xúc động nhớ lại trận đ.ánh lịch sử của 50 năm về trước.
Tự hào là thế hệ đầu của Hải quân Việt Nam
Chúng tôi tìm đến ngôi nhà của người cựu binh Hoàng Sỹ Hồng (70 t.uổi) tại khối phố 2, thị trấn Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Ngôi nhà nhỏ đơn sơ là tổ ấm của 2 vợ chồng người lính thế hệ đầu tiên của binh chủng Hải quân Việt Nam. Gia đình ông có 3 người con đã lập gia đình, chỉ còn anh con trai út đang công tác xa.
Ông Hồng cho chúng tôi xem những bức ảnh trong những lần gặp mặt các đồng đội cũ của mình. "Chỉ có những bức ảnh mới này thôi. Ảnh cũ ít lắm nhưng cũng thất lạc hết rồi, thành ra những kỷ niệm đều cất hết vào đây", ông cười chỉ vào mái đầu đã nhiều sợi bạc.
Ông Hồng sinh năm 1944, quê tại làng Cổ Đạm (huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh). Sinh ra ở làng biển nên từ nhỏ ông đã nổi tiếng là tay bơi giỏi trong làng. Đến đầu năm 1962, khi đang học lớp 8 tại trường cấp 3 huyện Can Lộc, ông được lệnh về tuyển quân tại địa phương. "Vừa hay có tin, học sinh trong trường ai cũng háo hức bởi lần đầu tiên, địa phương có lệnh tuyển học sinh. Có lệnh nghỉ là lũ chúng tôi lập tức về nhà. Cả đoàn về gần trăm, nhưng năm ấy chỉ chọn lấy 36 người. Một trong những điều kiện trúng tuyển là phải biết bơi giỏi", người cựu binh già nhớ lại.
Người cựu binh Hoàng Sỹ Hồng - nguyên lính Hải quân tàu HQ 173 từng tham gia trận đ.ánh ngày 5/8/1964 tại cảng Sông Gianh Quảng Bình
Sau đó, ông cùng các chiến sĩ khác hành quân hơn 20km lên xã Đức Vĩnh (huyện Đức Thọ), tại đây mọi người được chở qua sông ngược lên vùng Hưng Khánh (huyện Hưng Nguyên, Nghệ An) để huấn luyện và học kỹ thuật về máy tàu trong vòng 9 tháng. Đến tháng 3/1963, ông Hoàng Sỹ Hồng được biên chế làm thủy thủ tại bộ phận hệ thống cơ điện của tàu Tuần la (hay còn gọi là tàu 79 do trọng lượng của tàu là 79 tấn), mang số hiệu HQ 173 thuộc phân đội 6, căn cứ 2 đóng tại Hưng Hòa (huyện Hưng Nguyên).
"Cả tàu lúc này có 34 người gồm sĩ quan và chiến sĩ. Bộ phận của tôi làm nhiệm vụ quản lý và khai thác theo đúng quy trình, quy phạm hiện hành đối với tất cả hệ thống và trang thiết bị điện trên tàu như: máy phát điện, hệ thống tự động điều khiển từ xa, hệ thống thông tin liên lạc nội bộ, hệ thống tín hiệu, nguồn điện cho các maý móc điện hàng hải và các thiết bị khác với hiệu quả kinh tế cao. Cùng với bộ phận hàng hải, chúng tôi phải làm cho con tàu di chuyển đi đúng hướng", ông Hồng cho biết.
Ký ức về trận đ.ánh cách đây 50 năm
Giữa năm 1964, thời điểm đế quốc Mỹ mở trận tập kích ác liệt vào lực lượng Hải quân ta từ khu vực sông Gianh (Quảng Bình) trở ra. Từ cuối tháng 7, chúng tôi được lệnh của Bộ chỉ huy phải luôn trực trong tư thế sẵn sàng chiến đầu.
Đến tờ mờ sáng ngày 5/6/1964, tàu chúng tôi được lệnh tăng cường vào cảng Sông Gianh tại Quảng Bình cùng với tàu HQ 175. Do thời điểm này, tàu chúng tôi là một trong những tàu được trang bị pháo 37 ly (b.ắn trong vào bán kính 4km). "Khi nhận lệnh cũng là lúc tôi vừa tròn 20 t.uổi. Nhiều chiến sĩ trên tàu cũng trạc t.uổi tôi. Đây cũng là trận đ.ánh đầu tiên chúng tôi giáp mặt với máy bay. Ai cũng hồi hộp lo lắng, không phải sợ hy sinh mà sợ chưa đủ kinh nghiệm để hoàn thành nhiệm vụ. Không ai bảo ai, mọi người đều tự dặn phải cố gắng hết sức chiến đấu", ông Hồng bồi hồi nhớ lại giây phút chuẩn bị lên đường.
Đến khoảng tầm 11h ngày 5/8, chúng tôi đã vào tới cảng Sông Gianh, chưa kịp ăn cơm trưa thì được lệnh phải mở hết áo pháo (đầu pháo được bịt lại bằng áo mưa) để sẵn sàng chiến đấu. Áo pháo vừa mở thì máy bay Mỹ bắt đầu oanh tạc trên bầu trời. Các tàu lần lượt cơ động rời khỏi cảng để ngênh chiến. "Mặc dù ở dưới boong tàu nhưng chúng tôi vẫn nghe rõ tiếng thả bom, b.ắn rốc-két xuống các tàu liên tục của máy bay Mỹ. Để đảm bảo công tác chiến đấu, anh em chúng tôi phải căng tai tập trung hết sức để nghe rõ, đủ hiệu lệnh của chỉ huy, không bỏ sót một từ. Nhiều anh em vừa vào đến nơi, quãng đường xa bị say sóng nhưng vừa nghe thông báo đã vào ngay vị trí, căng sức chiến đấu", giọng ông hào hứng.
Tại cảng sông Gianh, các tàu hải quân của ta đã nhanh chóng cơ động n.ổ s.úng kịp thời từ đợt công kích đầu tiên của máy bay Mỹ. Tiếp đó, các tàu chúng tôi cùng tàu 175, 177 và các trận địa s.úng máy, cao xạ hai bên bờ sông Gianh đều n.ổ s.úng đ.ánh trả.
Lính Hải Quân trong trận đ.ánh đầu tiên ngày 5/8/1964 (ảnh tư liệu)
Đến gần 14h cùng ngày, máy bay Mỹ ngừng lại và 16h18 phút, Mỹ lại cho 5 chiếc F8U tiếp tục lao vào đ.ánh phá cảng Gianh lần thứ hai. Các tàu 167, 181, 161 đã cơ động nhanh, b.ắn trả quyết liệt, vô hiệu hóa các đợt tiến công của địch. Cùng với các lực lượng, tự vệ ngư trường Sông Gianh, công an vũ trang, lực lượng dân quân các xã: Quảng Phúc, Quảng Thọ, Quảng Thuận, Thanh Trạch, Bắc Trạch... đã hiệp đồng chiến đấu, chi viện kịp thời cho lực lượng hải quân. Trước lưới lửa dày đặc của bộ đội và nhân dân ta, bọn giặc lái Mỹ không dám sà xuống thấp...
Tại vịnh Hòn La, chiếc tàu tải trọng 50 tấn của lực lượng hải quân, chở 22 cán bộ, chiến sỹ thuộc đơn vị Phòng bảo đảm hàng hải, Quân chủng Hải quân khi đang khảo sát tại vịnh thì máy bay Mỹ xuất hiện cắt bom đ.ánh phá. Trên đài chỉ huy, chiến sĩ phụ trách tín hiệu thông tin bị thương. Ba máy bay hiện đại của Mỹ bay với tầm cao chừng 3 km hung hãn như muốn nuốt chửng con tàu. B.om n.ổ quanh con tàu, nhiều chiến sỹ bị thương.
Với tinh thần chiến đấu ngoan cường dũng cảm của các chiến sĩ hải quân, của quân dân Quảng Bình, trận đ.ánh máy bay Mỹ đã giành được thắng lợi. Trong chiến thắng trận đầu, quân dân Quảng Bình cùng với bộ đội hải quân, bộ đội phòng không ba thứ quân đã b.ắn rơi 3 chiếc và b.ắn bị thương 1 chiếc máy bay Mỹ. Chiến thắng này mang ý nghĩa hết sức quan trọng cả về quân sự và chính trị, cỗ vũ mạnh mẽ khí thế đ.ánh Mỹ, củng cố niềm tin cho quân dân cả nước.
"Tôi không nhớ con số thương vong tại trận chiến này. Riêng tàu tôi, đồng chí thuyền trưởng đã hy sinh", ánh mắt người cựu binh chùng xuống.
Người lính Hải Quân nhiều lần được gặp Bác Hồ
Sau trận đ.ánh lịch sử, ông Hoàng Sỹ Hồng tiếp tục tham gia nhiều trận đ.ánh khác cũng tại Quảng Bình. Cũng tại đây, ông bị thương nặng trong trận đ.ánh ngày 15/3/1965. Sau đó, ông được cử đi học về hệ thống các phương tiện của tàu máy tại Liên Xô, Trung Quốc và trở vềViệt Nam (năm 1967).
Một trong những niềm tự hào của ông Hồng là đã có một thời gian được ở gần Bác Hồ. Khoảng thời gian không dài nhưng những năm tháng được ở gần người đã để lại nhiều bài học sâu sắc cho ông. Vào đầu năm 1964, một nước bạn có tặng cho Bác một con tàu trang bị máy móc rất hiện đại. Bộ chỉ huy yêu cầu mỗi tàu cắt cử 1 số chiến sĩ ưu tú để ra điều khiển tàu trong thời gian 7 ngày. Ông Hồng cũng nằm trong số đó. "Có một lần Bác xuống tàu cầm 1 bộ phận của máy tàu hỏi đây là cái gì. Một đồng chí giơ tay nói với Bác tên của bộ phận đó bằng tiếng Pháp. Bác lắc đầu nói, nếu biết tên tiếng Việt của nó sao không gọi để người khác dễ hiểu. Sau rồi Bác dặn dò, nên dùng tiếng Việt cho mọi người khác còn biết, như thế cũng là giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt nước ta. Nghe Bác nói mọi người có mặt ai cũng lặng đi", ông Hồng xúc động nhớ lại kỷ niệm về Bác.
Một lần khác, "Khi đó chúng tôi đang ăn cơm dưới boong tàu thì Bác xuống thăm. Rồi Bác ngỏ ý muốn ăn chung cùng mọi người. Nhưng quả thật lúc này, bữa ăn chúng tôi rất đơn giản, ngoài cơm với một ít trứng còn lại là rau. Ai cùng ái ngại mời bác lên trên boong ăn theo chế độ khác. Nhưng Bác xua tay "Các chú ăn được, bác cũng ăn được". Nói rồi Người ngồi chung với chúng tôi, vừa ăn vừa trò chuyện thân tình".
Sau lần ấy, ông Hồng nhiều lần được gặp Bác nữa. Mỗi lần gặp Bác là mỗi kỷ niệm, bài học quý giá đối với người cựu binh.
Cuộc đời chinh chiến đã qua ngót gần nửa thể kỷ, nhưng với người cựu binh Hoàng Sỹ Hồng đó là những ký ức theo ông đi cùng năm tháng. Chiến tranh đi qua, 36 chiến sỹ được tuyển quân năm xưa may mắn đều sóng sót trở về.
Ông Hồng (người đứng thứ 5 hàng trên cùng từ phải qua) trong lần họp mặt cùng đơn vị
Dù hiện nay người còn, người mất, nhưng hằng năm đến ngày 5/8, ông và các đồng đội cũ đều tổ chức họp mặt ôn lại những kỷ niệm của một thời hoa lửa. Hiện nay, người con trai đầu của ông cũng đứng vào hàng ngũ của lính Hải quân công tác tại Đồng Nai.
Phương Hồ
Theo dantri
Nữ anh hùng "ngã ba lửa" Bến Thủy Bà phụ trách cửa hàng ăn uống Bến Thủy, suốt 8 năm bám trọng điểm, lo lắng, chăm sóc từng bát cơm, từng tấm bánh cho biết bao chiến sĩ, công nhân sống c.hết với "ngã ba lửa" - cửa ngõ tiến vào mặt trận phía Nam. Những ngày cuối tháng 7, chúng tôi tới thăm bà Hoàng Thị Liên tại căn nhà...