Y tế Việt Nam: Tiếp nối thành công, tạo tiền đề vững chắc để phát triển
Năm 2019 đã khép lại – cũng là hơn 2 năm ngành y tế cả nước thực hiện Nghị quyết của Trung ương về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân (CSSKND) trong tình hình mới.
Tiếp nối thành công của các năm trước, diện mạo ngành y tế đã có nhiều đổi thay rõ rệt, y tế cơ sở “vững chắc từ cổng” khi tỷ lệ người dân đến thăm khám tại trạm y tế tăng nhiều, y tế kỹ thuật cao tiếp tục chinh phục thêm đỉnh cao mới mà điển hình là những ca ghép tạng “siêu khó”… Cần phải kể đến thêm nữa là trong năm qua, y tế Việt Nam đã trở thành điểm đến của gần 90.000 người nước ngoài đến khám chữa bệnh.
Người dân được tiếp cận nhiều dịch vụ y tế ngay tại cơ sở
Để nâng cao chất lượng của y tế cơ sở, “hút” và “níu giữ” người dân về cơ sở thăm khám, theo dõi sức khỏe ban đầu ngay tại cơ sở, Bộ Y tế đã và đang triển khai đồng loạt nhiều giải pháp đổi mới hoạt động của trạm y tế xã, trong đó Bộ Y tế đã khảo sát, lựa chọn 26 xã, phường, thị trấn thuộc 8 tỉnh, thành phố đại diện cho các vùng để triển khai mô hình điểm theo nguyên lý y học gia đình.
Từ thực tiễn triển khai thời gian qua cho thấy, mô hình trạm y tế điểm là mô hình tốt, phù hợp cho nâng cao chất lượng khám chữa bệnh của người dân tại cơ sở. Mô hình này mang lại nhiều cái lợi thiết thực, đối với người dân được khám và điều trị gần nhà, đỡ chi phí đi lại và chi phí chăm sóc cho người bệnh. Góp phần giảm tải cho bệnh viện tuyến trên. Giảm gánh nặng bệnh tật cho địa phương. Đối với cơ sở y tế, bước đầu đáp ứng được nhu cầu theo dõi sức khỏe hằng tháng của bệnh nhân ngay tại cơ sở. Cùng với đó, trình độ của nhân viên y tế của trạm y tế được nâng cao, đời sống nâng lên. Thu nhập năm 2019 tăng gấp 3 lần so với năm 2018.
Trên cơ sở kết quả tại 26 trạm thí điểm, Bộ Y tế đã chính thức đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trên cả nước triển khai và nhân rộng ra các trạm y tế xã, phường trên địa bàn.
Hiện cả nước có hơn 11.100 trạm y tế xã, phường, thị trấn, thôn, bản… Đây là mạng lưới y tế cơ sở trực tiếp gần người dân nhất và có thể kịp thời phát hiện các dịch bệnh; triển khai các dịch vụ khám, chữa bệnh cơ bản; quản lý sức khỏe cho mỗi người dân… Y tế cơ sở Việt Nam được tổ chức quốc tế đánh giá là điểm sáng trên thế giới vì có mạng lưới y tế cơ sở rộng khắp đến tận xã/phường, thậm chí tới cả y tế thôn bản. Tuy nhiên, để tháo gỡ những khó khăn, giúp y tế cơ sở phát huy được vai trò “người gác cổng” trong CSSKND, trong thời gian qua, Bộ Y tế đã và đang thực hiện nhiều giải pháp mang tính đột phá nhằm đổi mới mạnh mẽ trong cả cơ chế và phương thức hoạt động để y tế cơ sở là nền tảng trong CSSKND, tài chính cho y tế cơ sở cũng từng bước đổi mới về phương thức chi trả.
Mục đích lớn nhất của ngành y tế là tiến tới bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân, thực hiện mục tiêu quản lý sức khỏe toàn diện, người dân cần được khám sức khỏe định kỳ chứ không chỉ khám bệnh khi ốm đau; được khám sàng lọc để phát hiện sớm nguy cơ, mầm mống bệnh tật, điều trị kịp thời nhằm giảm thấp nhất chi phí; được tư vấn về sức khỏe, dinh dưỡng, phòng bệnh, nâng cao sức khỏe. Y tế cơ sở sẽ không chỉ là tuyến đầu trong phòng bệnh, mà còn chăm sóc sức khỏe liên tục, toàn diện và lồng ghép. Trên thực tiễn y tế cơ sở của Việt Nam đang dần thực hiện được mục tiêu này… Đây cũng là hướng đích mà chương trình “Sức khỏe Việt Nam” đang được triển khai thực hiện hướng tới.
Ca ghép tim phổi đồng thì tại Bệnh viện Việt Đức.
Video đang HOT
Phát triển y tế chuyên sâu, thực hiện hiệu quả đề án “sợi dây rút ngược”
Nhìn lại năm 2019 có thể thấy, đi liền với y tế cơ sở, các trung tâm y tế chuyên sâu cũng từng bước được hình thành và phát triển tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng; đồng thời xây dựng một số bệnh viện đa khoa tỉnh làm nhiệm vụ vùng. Các trung tâm y tế chuyên sâu cũng từng bước mở rộng các chuyên khoa đầu ngành để chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới, trong đó có nhiều kỹ thuật cả về chẩn đoán và điều trị ngang tầm với các nước trong khu vực.
Cùng với xây dựng cơ sở khang trang, nhiều bệnh viện đã trang bị được những thiết bị y tế hiện đại trong chẩn đoán và điều trị bệnh như hệ thống Robot Da Vinci Xi hiện đại nhất trên thế giới hiện nay được BV K trang bị để phục vụ điều trị bệnh ung thư; Sử dụng trí tuệ nhân tạo của Robot Modus V Synaptive trong phẫu thuật thần kinh tại BV Nhân dân 115… đã góp phần nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân.
PGS.TS. Lương Ngọc Khuê – Cục trưởng Cục Quản lý Khám chữa bệnh, Bộ Y tế cho biết, các thầy thuốc của Việt Nam hiện nay đã làm chủ được rất nhiều kỹ thuật điều trị cao không thua các nước khác, điển hình là các kỹ thuật làm răng, thụ tinh trong ống nghiệm, điều trị đột quỵ, ghép gan, ghép thận, ghép tim, chữa khớp, mổ nội soi, phẫu thuật mắt, kỹ thuật chẩn đoán… Sự phát triển về kỹ thuật y tế này đã thu hút rất nhiều Việt kiều về nước điều trị.
Một trong những thế mạnh của y tế nước ta là chi phí thấp hơn các nước trong khi chất lượng lại không thua kém. Năm 2018, các bệnh viện trong nước tiếp nhận 300.000 người là Việt kiều, người bệnh ở các quốc gia lân cận như Campuchia, Lào, người nước ngoài đang làm việc tại Việt Nam đến khám bệnh, 57.000 người trong đó đã điều trị nội trú. “Kết quả khảo sát nhanh do Cục Quản lý Khám, chữa bệnh thực hiện tháng 8/2019 tại 329 bệnh viện, tổng số 6 tháng đầu năm có 88.983 lượt người nước ngoài khám bệnh và 10.170 người nước ngoài điều trị nội trú tại các bệnh viện các tuyến” – PGS.TS. Lương Ngọc Khuê thông tin.
Các bệnh viện tuyến trung ương được người nước ngoài tìm đến khám chữa bệnh nhiều nhất gồm BV ĐH Y Dược TP.Hồ Chí Minh, BV Chợ Rẫy, BVĐK TW Huế cơ sở 1, BV Phổi TW, BVĐK TW Quảng Nam… Bệnh nhân nước ngoài chủ yếu điều trị các bệnh về da, viêm phổi, viêm phế quản, chấn thương do tai nạn giao thông, gãy xương, khám sức khỏe, sản phụ khoa, ung bướu, tim mạch…
Với sự chuyển giao kỹ thuật của các BV tuyến trên, sự nỗ lực học hỏi của chính các BV tuyến dưới, hiện nay nhiều BV tuyến dưới đã thực hiện thành công các ca phẫu thuật phức tạp đòi hỏi chuyên môn sâu như điều trị ung thư, phẫu thuật robot, ghép tạng… Thành công này đã tạo niềm tin cho người dân vào y tế tuyến dưới, góp phần thực hiện hiệu quả đề án “sợi dây rút ngược” của ngành y tế… Năm 2019, nhờ sự chuyển giao kỹ thuật và hỗ trợ của BV Việt Đức, BVĐK Phú Thọ trở thành BV tuyến tỉnh đầu tiên thực hiện ghép thận không cùng huyết thống và nhóm máu. Trước đó, BVĐK tỉnh Phú Thọ cũng đã làm chủ kỹ thuật ghép thận với 9 ca thành công. TS. Nguyễn Văn Sơn, Phó Giám đốc BV nhấn mạnh, kể từ khi được chuyển giao kỹ thuật này, Phú Thọ đã tự tin triển khai hoạt động ghép thận, giúp người bệnh không cần phải vượt tuyến.
Còn BVĐK tỉnh Ninh Bình đã đủ khả năng phát triển thành nhiều khoa độc lập và nhiều kỹ thuật ngoại khoa đã trở thành thế mạnh như phẫu thuật nội soi tiêu hóa, nội soi tiết niệu, thay khớp háng, phẫu thuật cột sống…
Những dấu ấn đặc biệt của chuyên ngành ghép tạng
Các bác sĩ BV Việt Đức vừa thực hiện thành công hai ca ghép đa tạng đặc biệt lần đầu tiên được thực hiện tại Việt Nam. Một ca ghép hai phổi đồng thời (ghép một thì) với mổ tim hở sửa chữa bệnh tim bẩm sinh (sửa tim – ghép phổi) và một ghép đa tạng gan và thận đồng thời. Thành công này tiếp nối thành công của hơn 530 ca ghép tạng được các cơ sở y tế trong cả nước thực hiện trong năm 2019. Cũng trong năm 2019, nhiều cơ sở y tế trong cả nước đã tổ chức các “tuần lễ ghép tạng”, đã có hàng chục, thậm chí trên 20 ca ghép tạng được thực hiện thành công chỉ trong thời gian vẻn vẹn một tuần tại BV Việt Đức, BVĐK TW Huế, BV Chợ Rẫy… Thêm một ca ghép tạng thành công, thêm một cuộc đời được hồi sinh từ “món quà sự sống” của người khác.
Năm 2019 cũng đánh dấu mốc son của chuyên ngành ghép tạng Việt Nam khi đây là năm có nhiều em bé nhỏ tuổi nhất, nhẹ cân nhất được ghép tạng (ghép gan, thận…). Tháng 9/2019, bé Bùi Bảo Nguyên (6 tuổi, quê Thái Nguyên) bị suy thận giai đoạn cuối là bệnh nhi nhẹ cân nhất (13,5kg) ở Việt Nam được ghép thận tại BV Nhi TW. Tiếp đó, tháng 10/2019, các thầy thuốc BV Nhi cũng tiến hành ghép gan cấp cứu cho bệnh nhi vừa nhỏ tuổi, vừa nhẹ cân nhất Việt Nam từ trước tới nay. Các bác sĩ phải chạy đua với thời gian. Trường hợp của bé Châu là ca ghép gan cho bệnh nhi ít tuổi nhất và nhẹ cân nhất Việt Nam với thời gian thực hiện ghép kỷ lục chỉ trong 8 giờ.
Tháng 10/2019, BV Việt Đức tiễn anh N.V.K (ở Hà Nội) ra viện. Anh K là bệnh nhân ghép phổi thứ 2 được thực hiện bởi các bác sĩ BV Việt Đức, nhưng là người đầu tiên được ra viện. Không chỉ thế, anh còn khỏe mạnh, tái khám đều và trở về cuộc sống thường ngày anh thực hiện những công việc như người bình thường.
Nguồn tài chính bền vững cho CSSKND
Bảo hiểm y tế (BHYT) là cơ chế tài chính y tế công, đồng thời là một chính sách an sinh xã hội vì mục tiêu công bằng, hiệu quả và phát triển trong lĩnh vực chăm sóc, bảo vệ, nâng cao sức khỏe nhân dân. Báo cáo của Bộ Y tế cho thấy, sau 10 năm thực hiện Chỉ thị số 38-CT/TW ngày 7/9/2009 của Ban Bí thư về đẩy mạnh công tác BHYT trong tình hình mới, tỷ lệ người dân tham gia BHYT tăng cao qua các năm, từ 45% (năm 2009) lên 71% (năm 2015) và khoảng 89,8% (năm 2019) vượt chỉ tiêu đề ra.
Đây là kết quả của việc triển khai quyết liệt các giải pháp thực hiện các nội dung mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT nhằm đẩy nhanh lộ trình BHYT toàn dân như: bắt buộc tham gia BHYT; tham gia BHYT theo hộ gia đình với cơ chế giảm mức đóng theo số người tham gia; bổ sung một số đối tượng được ngân sách nhà nước đóng BHYT. Đến nay, toàn bộ 63 tỉnh, thành phố đều đạt và vượt chỉ tiêu tỷ lệ bao phủ BHYT được Thủ tướng Chính phủ giao tại Quyết định số 1167/QĐ-TTg; cả nước có 24 tỉnh, thành phố có tỷ lệ bao phủ BHYT đạt hơn 90% số dân.
BHYT trên thực tế đã trở thành “chiếc phao cứu sinh” cho nhiều người dân không may mắc trọng bệnh, có những bệnh nhân bị bệnh ung thư, bệnh về máu… đã được quỹ BHYT thanh toán từ vài trăm triệu lên đến hàng tỷ đồng, bởi quyền lợi BHYT (về thuốc, vật tư y tế, kỹ thuật y tế,…) luôn được quan tâm, bổ sung đáp ứng với nhu cầu khám, chữa bệnh của người tham gia BHYT, sự thay đổi về mô hình bệnh tật, sự phát triển của khoa học công nghệ trong lĩnh vực y tế, khả năng cân đối quỹ BHYT và khả năng chi trả của người tham gia, đồng thời hướng tới mục tiêu giảm chi tiền túi từ hộ gia đình cho chi tiêu y tế.
Cũng trong năm qua, các cơ sở y tế cũng tiếp tục đẩy mạnh thực hiện phong trào đổi mới phong cách, thái độ phục vụ hướng tới sự hài lòng người bệnh. Có dịp trò chuyện với không ít người bệnh đến khám hoặc đang điều trị nội trú tại các bệnh viện (BV) đầu ngành như BV Bạch Mai, BV K, BV Nội tiết TW, BV Nhi TW, BV Việt Đức… rồi nhiều BV tuyến tỉnh, quận, huyện tại nhiều địa phương trên cả nước khi tham gia các đoàn công tác của Bộ Y tế, chúng tôi đều nhận được câu trả lời cho rằng, ngành y đã có sự thay đổi trên nhiều phương diện.
ó không chỉ là cơ sở vật chất, trang thiết bị ngày càng khang trang, hiện đại mà hơn hết là sự nhiệt tình của đội ngũ bác sĩ, điều dưỡng, nhân viên y tế. ội ngũ nhân viên công tác xã hội giờ đây như là người đồng hành, thường xuyên thăm hỏi, động viên… giúp người bệnh vững tin trong hành trình chiến đấu với những căn bệnh trong mình.
Thái Bình
Theo suckhoedoisong
Lần đầu tiên vừa ghép gan vừa ghép thận cho một bệnh nhân
Ông M.S. (59 tuổi, quốc tịch Lào) phát hiện mắc bệnh suy thận mãn tính kèm theo xơ gan từ tháng 4/2019. May mắn, vào lúc bệnh trở nên nguy kịch, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức nhận được tạng hiến, nhờ đó, ông M.S được cứu sống.
Ca phẫu thuật đầu tiên ghép đồng thời gan và thận cho bệnh nhân tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức (Ảnh: BVCC)
Ông M.S. có tiền sử bệnh đái tháo đường và cao huyết áp. Khi tới Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức để điều trị, tình trạng bệnh của ông M.S đã chuyển nặng: Suy cả gan và thận, phải chạy thận chu kỳ, đã xuất huyết tiêu hóa 2 lần phải điều trị nội khoa, xơ gan nặng. Ông được chỉ định phải ghép cả gan và thận.
Trước tình trạng bệnh phức tạp của ông M.S, GS.TS. Trần Bình Giang - Giám đốc Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức - đã trực tiếp thực hiện ca phẫu thuật vào ngày 17/12, quyết định sẽ ghép đồng thời cả gan và thận cho ông M.S để tránh các nguy cơ của 2 cuộc mổ liên tiếp.
Ông M.S. cũng là bệnh nhân đầu tiên tại Bệnh viện được phẫu thuật ghép gan và thận đồng thời.
Ca mổ diễn ra trong 12 giờ đồng hồ, với sự tham gia của gần 100 chuyên gia trong lĩnh vực ghép tạng. Các bác sĩ thực hiện lọc máu liên tục để thay thế cho quả thận đã bị suy chức năng của ông H. để duy trì sức khỏe cơ thể cho ông và thực hiện ghép gan, thận thuận lợi. Tới 21h ngày 17/12, ca mổ thành công, gan và thận mới ghép đã hoạt động.
Hiện, người bệnh tự thở, các chức năng gan và thận đã dần phục hồi, tiếp tục được chăm sóc tại Bệnh viện.
TS. Nguyễn Quang Nghĩa - Giám đốc Trung tâm ghép tạng, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức đánh giá, ghép đồng thời gan và thận là một kỹ thuật khó trong lĩnh vực ghép tạng, thời gian mổ kéo dài. Không chỉ đòi hỏi bác sĩ phải có đủ kinh nghiệm trong ghép gan và thận, ca phẫu thuật còn đòi hỏi sử dụng các kỹ thuật phức tạp, sự phối hợp nhịp nhàng giữa các nhóm bác sĩ.
Vì sự khó khăn, phức tạp nên ban đầu, các bác sĩ dự định sẽ ghép từng tạng một. Nhưng rồi, bằng kinh nghiệm và trình độ tay nghề đã được thử thách qua nhiều ca ghép tạng, đặc biệt là có sự tham gia trực tiếp của các chuyên gia ngoại khoa hàng đầu như PGS. Nguyễn Tiến Quyết, GS. Trần Bình Giang, nên sau khi hội chẩn kỹ càng, các bác sĩ đã quyết định ghép cả 2 tạng cùng lúc. Việc này giúp cho bệnh nhân bớt ra máu hơn, cũng như giảm đau hơn.
"Thành công bước đầu của ca ghép đã chứng minh trình độ của ngành ghép tạng Việt Nam nói chung và Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức nói riêng, đã đạt tầm cao mới, có thể sánh với các trung tâm ghép tạng lơn trên thế giới" - TS. Nguyễn Quang Nghĩa cho biết.
Theo viettimes
Cả nước đã thực hiện hơn 4.600 ca ghép tạng Theo Hội Ghép tạng Việt Nam cho biết, số ca được ghép tạng tại Việt Nam đã tăng rất nhanh trong 4 năm gần đây. Cụ thể, tính đến tháng 9-2019, cả nước đã thực hiện được hơn 4.600 ca ghép tạng, trong đó ghép thận gần 4.000 ca, ghép tủy hơn 500 ca, còn lại là ghép gan, ghép tim, phổi và...