Xem xét tách việc biên soạn, xuất bản SGK khỏi chức năng quản lý nhà nước về giáo dục
Tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội đã có Báo cáo kết quả khảo sát một số nội dung trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về xuất bản, in, phát hành sách giáo khoa giáo dục phổ thông giai đoạn 2012 – 2017.
Toàn cảnh phiên họp Kỳ họp thứ sáu, Quốc hội khóa XIV (Sáng 27/10/2018). Ảnh: Văn Điệp/TTXVN
Lo ngại “độc quyền khép kín”
Báo cáo đánh giá, thời gian qua, việc xuất bản sách giáo khoa giáo dục phổ thông thực hiện theo đúng quy trình: Bản thảo sau khi được Bộ Giáo dục và Đào tạo thẩm định, phê duyệt, sẽ giao cho Nha xuât ban Giao duc Việt Nam tổ chức xuất bản, in và phát hành.
Qua khảo sát cho thấy dư luận rất băn khoăn việc Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa tổ chức biên soạn, vừa tổ chức thẩm định, phê duyệt, chỉ đạo việc xuất bản, in và phát hành sách giáo khoa đã tạo ra thế độc quyền khép kín trong tất cả các khâu của quy trình.
Việc chỉ có duy nhất 1 đơn vị được giao tổ chức xuất bản sách giáo khoa dễ dẫn đến nguy cơ xảy ra các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền gây hạn chế cạnh tranh, hạn chế việc thúc đẩy cạnh tranh nhằm nâng cao chất lượng, giảm giá bán sách giáo khoa, mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi trong phát hành, đáp ứng yêu cầu lựa chọn của người tiêu dùng.
Bên cạnh đó, việc giao Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức biên soạn, phê duyệt, xuất bản sách giáo khoa không phù hợp với Luật Xuất bản 2012. Xu hướng phổ biến trên thế giới hiện nay là cơ quan quản lý nhà nước không tham gia biên soạn, xuất bản mà chỉ tổ chức kiểm duyệt, thẩm định sách giáo khoa.
Báo cáo cũng chỉ rõ: Hoạt động in, phát hành sách giáo khoa giáo dục phổ thông cơ bản đáp ứng đầy đủ, đồng bộ, kịp thời nhu cầu học tập của học sinh và giảng dạy của giáo viên cả nước. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn còn một số tồn tại, hạn chế.
Cụ thể, việc in sách giáo khoa giáo dục phổ thông được đấu thầu rộng rãi sau khi đã trừ sản lượng giao cho các đơn vị in nội bộ của Nha xuât ban Giao duc Việt Nam và những tên sách có số lượng in thấp.
Theo số liệu của Nha xuât ban Giao duc Việt Nam, tỷ lệ đấu thầu in trong năm 2016, 2017 là khoảng 70%. Cách thức như trên và kết quả đấu thầu trong thời gian qua cho thấy hoạt động in sách giáo khoa giáo dục phổ thông còn khép kín, tính cạnh tranh chưa cao,… có thể dẫn đến hạn chế về chất lượng, khó giảm giá thành, chưa khuyến khích việc đầu tư phát triển ngành in.
Đáng chú ý, tình trạng in lậu, in nối bản sách giáo khoa giáo dục phổ thông ngày càng lan rộng, tinh vi, phức tạp, gây khó khăn cho các cơ quan quản lý nhà nước, người sử dụng trong phân biệt thật, giả, phát hiện vi phạm; ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các tác giả, của nhà xuất bản và người tiêu dùng. Sách in lậu có chất lượng kém: hình ảnh bị mờ, chữ mất nét, không có các nội dung chỉnh sửa, bổ sung, gây khó khăn cho học sinh trong quá trình học.
Làm rõ việc Nhà xuất bản báo lỗ
Theo Báo cáo của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, sản lượng in sách giáo khoa giáo dục phổ thông những năm gần đây rất lớn, chỉ tính riêng năm 2017 là 107.807.120 bản sách/tổng sản lượng 312.000.000 bản in xuất bản phẩm cả nước, chiếm khoảng 30%; nếu tính cả sách tham khảo, sách mô hình trường học mới (VNEN) và tài liệu Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục thì lên đến 75% tổng sản lượng xuất bản phẩm toàn quốc.
Doanh thu từ bán sách giáo khoa giáo dục phổ thông những năm gần đây khoảng 1000 tỷ đồng/năm; lợi nhuận từ sách giáo khoa hằng năm tăng, năm 2016 là 72 tỷ đồng, năm 2017 là 150,8 tỷ đồng; mức chi chiết khấu phát hành là 25% (khoảng 250 tỷ đồng/năm) là khá cao, chưa thật phù hợp với cơ cấu giá thành, ảnh hưởng lớn đến việc chi trả của học sinh, giáo viên, lợi nhuận của các cơ sở in và các tổ chức, cá nhân liên quan khác, đồng thời mâu thuẫn với việc Nha xuât ban Giao duc Việt Nam báo lỗ liên tiếp ba năm gần đây. Đây là vấn đề cần được Bộ Giáo dục và Đào tạo làm rõ.
Video đang HOT
Cũng theo báo cáo, trong nhiều năm qua, tình trạng phần lớn sách giáo khoa chỉ sử dụng một lần đã gây lãng phí ngân sách nhà nước, tăng chi trả của người dân, gây bức xúc dư luận xã hội.
Qua khảo sát cho thấy, nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do việc biên soạn, thiết kế sách giáo khoa chưa hợp lý, đã đưa các dạng/mẫu bài tập trắc nghiệm và các dạng bài tập khác với các “câu lệnh” để học sinh Điền/Viết vào chỗ chấm hoặc ô trống, lựa chọn Đúng/Sai, Nối, Khoanh, Vẽ, Đánh dấu, Tô màu,… vào nhiều cuốn sách giáo khoa trong khi đã có sách bài tập in sẵn bán kèm theo.
Ngoài ra, chất lượng giấy in, đóng quyển sách giáo khoa giáo dục phổ thông một số môn chưa bảo đảm (giấy mỏng, nhanh cũ, dễ rách, màu tối, dễ bung bìa). Đặc biệt, việc chỉ đạo, hướng dẫn sử dụng sách giáo khoa tuy đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo quan tâm nhưng công tác kiểm tra, đánh giá việc in, phát hành, sử dụng sách của Bộ chưa sát sao, quyết liệt để có điều chỉnh kịp thời.
Phụ huynh chọn mua sách giáo khoa, đồ dùng học tập cho con em tại cửa hàng sách giáo dục 187 Giảng Võ (Hà Nội). Ảnh: Thanh Tùng/TTXVN
Hoàn thiện hệ thống chính sách về xuất bản, in, phát hành sách giáo khoa
Từ thực tế giám sát, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng kiến nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về xuất bản, in, phát hành xuất bản phẩm, đặc biệt là sách giáo khoa giáo dục phổ thông nhằm sửa đổi các quy định bất cập, bổ sung các quy định mới theo hướng đồng bộ, thống nhất, tạo lập môi trường pháp lý công bằng, có tính cạnh tranh, khuyến khích xã hội hóa, thu hút đầu tư phát triển lĩnh vực này.
Trước mắt sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan trong Luật Giáo dục hiện hành về biên soạn, xuất bản, in, phát hành sách giáo khoa giáo dục phổ thông phù hợp với Luật Xuất bản 2012, Nghị quyết 88/2014/QH13 của Quốc hội và hệ thống pháp luật hiện hành.
Bên cạnh đó, xem xét tách việc biên soạn, xuất bản sách giáo khoa giáo dục phổ thông ra khỏi chức năng quản lý nhà nước về giáo dục; bổ sung quy định cụ thể liên quan đến chương trình giáo dục phổ thông, sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, việc áp dụng phương pháp giảng dạy, tài liệu thí điểm trong hệ thống trường phổ thông (thời gian, địa bàn, cơ sở giáo dục, cấp học thí điểm).
Ủy ban cũng kiến nghị Chính phủ có chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư, tham gia biên soạn sách giáo khoa giáo dục phổ thông trên cơ sở chương trình giáo dục phổ thông mới; khuyến khích, tạo điều kiện để các nhà xuất bản được cấp phép xuất bản sách giáo khoa tham gia đấu thầu rộng rãi in, phát hành và khai thác các bản thảo sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Chính phủ cần kiên quyết xử lý các cơ quan nhà nước tham gia vào quá trình in lậu, in nối bản sách giáo khoa.
Bô Giao duc va Đao tao cần triển khai tổng kết, đánh giá việc biên soạn, in, phát hành, sử dụng sách giáo khoa, sách bài tập, tài liệu tham khảo, mô hình thí điểm VNEN và thực nghiệm tài liệu Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục.
Trên cơ sở đó kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật về sách giáo khoa, sách bài tập, tài liệu tham khảo, về thí điểm, thực nghiệm trong giáo dục, đồng thời thông tin rộng rãi về kết quả tổng kết, đánh giá, tạo sự chia sẻ, đồng thuận trong ngành giáo dục, trong nhân dân và xã hội.
Theo baotintuc
Đề xuất Bộ GD-ĐT không biên soạn, xuất bản sách giáo khoa
Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng kiến nghị Quốc hội xem xét tách việc biên soạn, xuất bản SGK GDPT ra khỏi chức năng quản lý nhà nước về giáo dục.
Bộ GD-ĐT chỉ nên thẩm định SGK?
Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội vừa công bố kết quả khảo sát một số nội dung trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về xuất bản, in, phát hành sách giáo khoa (SGK) giáo dục phổ thông (GDPT) giai đoạn 2012 - 2017.
3 năm báo lỗ nhưng chiết khấu SGK 250 tỷ đồng/năm
Ủy ban này cho rằng, thời gian qua, việc xuất bản SGK GDPT thực hiện theo đúng quy trình: bản thảo sau khi được Bộ GD-ĐT thẩm định, phê duyệt, sẽ giao cho NXB Giáo Dục Việt Nam (GDVN) tổ chức xuất bản, in và phát hành.
Dư luận rất băn khoăn cho rằng việc Bộ GD-ĐT vừa tổ chức biên soạn, vừa tổ chức thẩm định, phê duyệt, chỉ đạo việc xuất bản, in và phát hành SGK đã tạo ra thế độc quyền khép kín trong tất cả các khâu của quy trình từ biên soạn đến phát hành.
Việc chỉ có duy nhất 1 đơn vị được giao tổ chức xuất bản SGK dễ dẫn đến nguy cơ xảy ra các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền gây hạn chế cạnh tranh, hạn chế việc thúc đẩy cạnh tranh nhằm nâng cao chất lượng, giảm giá bán SGK, mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi trong phát hành, đáp ứng yêu cầu lựa chọn của người tiêu dùng.
Việc giao Bộ GD-ĐT tổ chức biên soạn, phê duyệt, xuất bản SGK không phù hợp với Luật Xuất bản 2012 và xu hướng phổ biến trên thế giới hiện nay là cơ quan quản lý nhà nước không tham gia biên soạn, xuất bản mà chỉ tổ chức kiểm duyệt, thẩm định SGK.
Cũng theo kết quả giám sát, hoạt động in, phát hành SGK GDPT trong những năm qua còn một số tồn tại, hạn chế. Việc in SGK GDPT được đấu thầu rộng rãi sau khi đã trừ sản lượng giao cho các đơn vị in nội bộ của NXB GDVN và những tên sách có số lượng in thấp. (Theo số liệu của NXB GDVN, tỷ lệ đấu thầu in trong năm 2016, 2017 là khoảng 70%).
Cách thức như trên và kết quả đấu thầu trong thời gian qua cho thấy hoạt động in SGK GDPT còn khép kín, tính cạnh tranh chưa cao,... có thể dẫn đến hạn chế về chất lượng, khó giảm giá thành, chưa khuyến khích việc đầu tư phát triển ngành in.
Bên cạnh đó, tình trạng in lậu, in nối bản SGK GDPT ngày càng lan rộng, tinh vi và phức tạp, gây khó khăn cho các cơ quan quản lý nhà nước và người sử dụng trong phân biệt thật, giả, phát hiện vi phạm; ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các tác giả, của nhà xuất bản và người tiêu dùng. SGK GDPT in lậu có chất lượng kém: hình ảnh bị mờ, chữ mất nét, không có các nội dung chỉnh sửa, bổ sung, gây khó khăn cho học sinh trong quá trình học.
Sản lượng in SGK GDPT những năm gần đây rất lớn, chỉ tính riêng năm 2017 là 107.807.120 bản sách/tổng sản lượng 312.000.000 bản in xuất bản phẩm cả nước (chưa tính sách tham khảo, sách mô hình trường học mới VNEN và tài liệu Tiếng Việt lớp 1 công nghệ giáo dục) chiếm tỷ lệ khoảng 30%; nếu tính cả sách tham khảo, sách VNEN và tài liệu Tiếng Việt lớp 1 công nghệ giáo dục (CNGD) thì lên đến 75% tổng sản lượng xuất bản phẩm toàn quốc.
Doanh thu từ bán SGK GDPT những năm gần đây khoảng 1.000 tỷ đồng/năm; lợi nhuận từ SGK hằng năm tăng, năm 2016 là 72 tỷ đồng, năm 2017 là 150,8 tỷ đồng.
Ủy ban cho rằng, mức chi chiết khấu phát hành SGK GDPT 25% (khoảng 250 tỷ đồng/năm) là khá cao, chưa thật phù hợp với cơ cấu giá thành, ảnh hưởng lớn đến việc chi trả của học sinh, giáo viên, lợi nhuận của các cơ sở in và các tổ chức, cá nhân liên quan khác, đồng thời mâu thuẫn với việc NXB GDVN báo lỗ liên tiếp ba năm gần đây, là vấn đề cần được Bộ GD-ĐT làm rõ.
Lãng phí SGK, sách thí điểm bán đắt
Báo cáo giám sát cũng khẳng định, giá bán bộ SGK thấp, nhưng đi kèm với bộ SGK còn hệ thống sách bài tập in sẵn và tài liệu bổ trợ (tùy cấp học) có giá tương đương hoặc cao hơn giá SGK. Nếu tính cả số tiền mua sách bài tập và tài liệu bổ trợ, phụ huynh, giáo viên phải trả số tiền gấp đôi hoặc hơn nữa.
Mặc dù Bộ GD-ĐT có hướng dẫn việc sử dụng SGK, sách bài tập, và trên website của NXB GDVN chỉ công bố bộ SGK chính và giá bán (không bao gồm sách bài tập và sách bổ trợ), nhưng việc phổ biến rộng rãi về loại sách bắt buộc phải mua và loại sách được tự chọn tới phụ huynh học sinh chưa được tốt, do vậy, trên thực tế, hầu hết phụ huynh mua trọn bộ SGK bao gồm cả sách bài tập và tài liệu bổ trợ.
Trong nhiều năm qua, tình trạng phần lớn SGK chỉ sử dụng một lần, gây lãng phí ngân sách nhà nước, tăng chi trả của người dân, gây bức xúc dư luận xã hội.
Qua khảo sát cho thấy, nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do việc biên soạn, thiết kế SGK chưa hợp lý, đã đưa các dạng/mẫu bài tập trắc nghiệm và các dạng bài tập khác với các "câu lệnh" để học sinh điền/viết vào chỗ chấm hoặc ô trống, lựa chọn đúng/sai, nối, khoanh, vẽ, đánh dấu, tô màu,... vào nhiều cuốn SGK trong khi đã có sách bài tập in sẵn bán kèm theo; chất lượng giấy in, đóng quyển SGK GDPT một số môn (Toán, Ngữ văn... THCS và THPT) chưa bảo đảm (giấy mỏng, nhanh cũ, dễ rách, màu tối, dễ bung bìa); việc chỉnh lý một số nội dung trong sách do thay đổi về đặc điểm tình hình chính trị, kinh tế, xã hội.
"Việc chỉ đạo, hướng dẫn sử dụng SGK tuy đã được Bộ GD-ĐT quan tâm nhưng công tác kiểm tra, đánh giá việc in, phát hành, sử dụng SGK GDPT của Bộ GD-ĐT chưa sát sao, quyết liệt để có điều chỉnh kịp thời", báo cáo nhấn mạnh.
Trong nhiều năm qua, ngoài bộ SGK GDPT 2000 (từ lớp 1 đến lớp 12) do Bộ GD-ĐT biên soạn, xuất bản, in, phát hành, còn có một số sách thực nghiệm, tài liệu thí điểm cũng do NXB GDVN xuất bản, in, phát hành, đang được sử dụng tại nhiều trường phổ thông trên cả nước; trong đó có bộ sách mô hình trường học mới (VNEN) và tài liệu Tiếng Việt lớp 1 CNGD.
Tuy là sách thí điểm, nhưng hằng năm sản lượng in, phát hành sách VNEN và sách Tiếng Việt lớp 1 CNGD tăng đột biến: Năm 2017 sản lượng in, phát hành tài liệu Tiếng Việt lớp 1 CNGD là 5.307.733 bản (khoảng 5% SGK GDPT 2000), tăng gần 13 lần so với năm 2012; sách VNEN là 10.793.844 bản (khoảng 10% SGK GDPT 2000), tăng gấp 5 lần so với năm 2014. Giá bán một bộ sách VNEN cao gấp 4 lần giá một bộ SGK GDPT 2000 đối với sách lớp 3 và lớp 4; gấp 3 lần đối với các lớp 5,6 và 7. Nếu tính tổng giá tiền bộ SGK 2000 có sách bài tập và sách bổ trợ kèm theo thì giá bộ sách VNEN gấp khoảng 1,6 lần.
Ngoài ra, do sách VNEN còn thiếu một số môn nên học sinh học sách VNEN ngoài việc phải chi số tiền rất cao cho bộ sách hướng dẫn học, còn phải chi thêm tiền mua các môn còn thiếu của SGK GDPT 2000, làm tăng gánh nặng chi phí của phụ huynh học sinh và giáo viên. Hầu hết các tỉnh đều kiến nghị giảm giá bán sách VNEN.
SGK GDPT 2000, sách VNEN và tài liệu Tiếng Việt lớp 1 CNGD cùng do NXB GDVN xuất bản, in và phát hành. Tuy nhiên, khác với SGK GDPT 2000, sách VNEN và tài liệu Tiếng Việt lớp 1 CNGD trong giai đoạn 2012-2017 không được bán trên thị trường mà được phân phối độc quyền bởi các công ty con và công ty thành viên của NXB GDVN và thông qua Sở GD-ĐT các tỉnh, thành phố, phòng GDĐT các quận/huyện/thị xã tới các trường tiểu học, THCS, trên cơ sở rà soát nhu cầu sử dụng các bộ sách này hằng năm.
Sách VNEN và sách Tiếng Việt lớp 1 CNGD được NXB GDVN chỉnh sửa, thay hằng năm, không sử dụng lại, gây lãng phí. Việc tổ chức thí điểm/thực nghiệm bộ sách VNEN và sách Tiếng Việt lớp 1 GDCN trong nhà trường phổ thông thời gian qua cũng đang gây ý kiến trái chiều trong dư luận xã hội đòi hỏi Bộ GD-ĐT quan tâm làm rõ.
Đề nghị xem xét việc Bộ GD-ĐT không biên soạn, xuất bản SGK
Từ thực tế giám sát, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội kiến nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về xuất bản, in, phát hành xuất bản, đặc biệt là SGK GDPT. Xem xét tách việc biên soạn, xuất bản SGK GDPT ra khỏi chức năng quản lý nhà nước về giáo dục. Bổ sung quy định cụ thể liên quan đến chương trình GDPT, SGK, tài liệu tham khảo; việc áp dụng phương pháp giảng dạy, tài liệu thí điểm trong hệ thống trường phổ thông (thời gian, địa bàn, cơ sở giáo dục, cấp học thí điểm).
Ủy ban cũng kiến nghị Chính phủ có chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư, tham gia biên soạn SGK GDPT trên cơ sở chương trình GDPT mới; khuyến khích, tạo điều kiện để các nhà xuất bản được cấp phép xuất bản SGK tham gia đấu thầu rộng rãi in, phát hành SGK và khai thác các bản thảo SGK GDPT. Kiên quyết xử lý các cơ quan nhà nước tham gia vào quá trình in lậu, in nối bản SGK.
Đối với Bộ GD-ĐT, Ủy ban đề nghị nghiên cứu việc công bố chương trình, SGK sử dụng ngân sách nhà nước, trước mắt ở cấp tiểu học và một số môn một cách công khai và qua các phương tiện thông tin xã hội. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về SGK, sách bài tập và tài liệu tham khảo, về thí điểm, thực nghiệm trong giáo dục.
Đối với UBND các tỉnh/thành phố có thực hiện thí điểm mô hình VNEN và tài liệu Tiếng Việt lớp 1 CNGD, cần chỉ đạo Sở GD-ĐT tổ chức tổng kết, đánh giá thí điểm mô hình VNEN và sách Tiếng Việt lớp 1 CNGD trên địa bàn, trên cơ sở đó kiến nghị việc tiếp tục hay dừng triển khai giảng dạy đối với các tài liệu thí điểm này.
Theo sggp
Cuộc chiến sách Công nghệ giáo dục - sách giáo khoa 2000 chuyển hướng So găng giữa Công nghệ giáo dục với sách giáo khoa 2000 sẽ chuyển sang 2 đối thủ mới: Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam với ông Ngô Trần Ái, Nguyễn Minh Thuyết. Ngày 8/9, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Hữu Độ đã chính thức lên tiếng về Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục đang làm ồn...