Xẻ dọc non cao… đi dạy học
Ngày nhà giáo cận kề, tôi lại nghĩ về họ nhiều hơn. Họ là những cô giáo tiểu học vùng cao, trong tất cả những nặng nề của ngành giáo dục, có lẽ họ là vất vả nhất.
Không tổ, không đồng nghiệp, họ đơn thân, côi cút một mình nơi bìa rừng vách đá; mong mỏi làm nhịp cầu để đưa được 24 chữ cái đến với học sinh vùng cao.
Chuyện của cô giáo Hiền
Những năm trước, cũng vào cữ này, tôi đi miền núi, lên đến với vùng cao miền đá Hà Giang. Đường từ Hà Nội lên Hà Giang ngày ấy xấu tệ. 4 giờ sáng từ Hà Nội, xe khách miệt mài chạy, sẩm tối mới đến thị xã Hà Giang. Mưa núi vần vũ, tôi tìm đến Mèo Vạc. Chị Nguyễn Thị Mơ lúc đó còn đang là Trưởng phòng Giáo dục của huyện. Trông chị ngày ấy, chả cần tìm hiểu về ngành, về nghề người ta cũng sẽ hình dung ra những khó khăn của giáo dục vùng cao, cụ thể ở cái đất Mèo Vạc này.
Tối, ăn với chị bữa cơm, thị trấn Mèo vạc buồn hiu, không một quán nước, cho qua thời gian, tôi đã ngồi lại khá khuya với vợ chồng chị. Nghe chị phác thảo, tôi không những chỉ cảm mà còn xót xa với thân phận các nữ giáo viên vùng cao. Ngày ấy, do đặc thù nên dậy tiểu học ở vùng cao chưa có thầy. Cả cao nguyên đá, 90% là các cô giáo trẻ.
Để thấu, để hiểu ngành và thân phận giáo viên, theo gợi ý của chị Mơ, tôi đi Lũng Pù. Chiếc xe máy mượn được, “gào”, “hét”, “gầm”, “rú” đến cả ngày trên đá, tôi mới đi được 30km và tấp vào một điểm trường có tên “Độc lập”. Tẩn Thu Hiền là cô giáo sống đơn thân ở đó. Từ đôi mắt, khuôn mặt, ngoại hình của cô đều toát ra những nỗi buồn khắc khoải.
Ngóng cô, một trong những niềm vui, niềm an ủi của nữ giáo viên vùng cao
Có khách, chắc lâu lắm rồi mới có khách nên cô vui, gần như quên hết mọi thứ. Tíu tít, cô nhóm củi nấu mì tôm cho tôi ăn. Đến lúc bắc nồi thì mới nhớ ra là mình đã hết nước dùng đến cả 5 ngày nay. “Chay tịnh” và ăn mì tôm sống, uống nước cầm hơi là tình cảnh lúc bấy giờ của cô cũng như khách.
Hiền học hết lớp 9, nhà hoàn cảnh, không thể đi học được nữa. Có đợt trường Sư phạm Hà Giang (Nay là trường Cao đẳng) tuyển giáo viên đi “xóa mù” vùng cao, cô vào ngành. Sau 1 tháng đào tạo, cô cùng các bạn được xe chở lên các huyện vùng cao để “rải”, cắm bản và làm giáo viên.
Hiền cô đơn và trở thành người đơn thân từ đấy. Lớp 9, ở các nơi khác, bố mẹ còn lo cho ăn, sáng phải đưa đến lớp thì vào độ tuổi ấy, Hiền đã làm giáo viên ở Cao nguyên đá, phải chủ động tất cả. Một năm, Hiền chỉ được hưởng 3 tháng không cô đơn, ấy là vào hè hay Tết. Còn sau đấy, theo tiếng gọi thiêng liêng của giáo dục, Hiền lại lên vùng cao, lại cô đơn cùng bầy trẻ nhỏ.
Mỗi khi từ nhà lên trường, Hiền cũng phải dậy từ 5 giờ sáng, đón một chuyến xe duy nhất, ì ạch đến thị trấn Mèo Vạc. Từ huyện vào còn có xe ôm chứ có việc gì phải từ trường ra huyện đột xuất thì chỉ chân trần đạp đá. 30km, đi từ sáng, đói tạt vào nhà dân xin mèn mén ăn rồi quẩy quả “bộ hành” tiếp đến sẩm tối mới ra huyện.
Ngôi trường dựng lên, căn trái gá vào bên lớp là chỗ cho cô giáo chưa đầy 20 tuổi đầu này ở. Cái giường bằng thân ngô, dát nứa do dân làm cho lúc nào cũng ẩm ướt và mốc meo một nửa vì không đủ hơi người. Sáng nấu một nồi cơm cho cả ngày ăn. Những lúc chập chiều, sương buông, mây gió vần vũ, ngồi ăn cơm mà nước mắt chảy tràn trề. Đã có lúc Hiền nghĩ đến những chữ như: Hay là…
Nhưng sáng dậy, chưa kịp thực hiện cái ý định “hay là” ấy thì đã thấy những đôi mắt trong veo của học trò nghèo người Mông lúng lính nơi cửa sổ cùng câu gọi hỏi: Cô gió (giáo) ơi, học chứ? Lại thấy thương, lại không muốn bỏ. Thế rồi cứ thương, cứ cấn cá như vậy, 24 chữ cái đảo đi, ghép lại, nhoàng cái, cô đã thành giáo viên lâu năm, gạo cội vùng cao.
Video đang HOT
Gạo cội đấy, nhưng giờ hỏi, Hiền chỉ bảo, với giáo viên tiểu học vùng cao như em, chỉ hỏi là đã dậy được bao nhiêu cái đầu biết đọc là vui lắm rồi. Năm vừa rồi, Hiền hạnh phúc nhất là có cậu học trò do mình dậy, được bầu làm chủ tịch xã đến thăm vào ngày 20-11 như sự đáp đền ơn chữ nghĩa với cô. Đây là hạnh phúc duy nhất của cô với gần 20 năm làm nghề “gieo chữ” trên cao nguyên đá này!
Chuyện của cô giáo Hà
Lại nhớ đợt quẩy quả “xẻ trường sơn”, vào thung lũng duy nhất có người Arem sinh sống (Thượng Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình). Quay đi quẩn lại, người gặp, giúp chúng tôi chỉ đường, cho mượn phòng để ở và kiêm cả công tác “phiên dịch” cũng lại là mấy cô giáo tiểu học. Người Arem ở đây, ngoài bố mẹ, bộ đội biên phòng thì cô giáo là người được họ quý nhất.
Nơi sơn thẳm, miền có tộc người Arem mới thoát xác ra khỏi tình trạng rừng rú ấy chưa được bao lâu, sau bộ đội thì cô giáo đã lên đây khá sớm. Không điện thắp sáng, không sóng điện thoại, không phương tiện nghe nhìn là tình cảnh ở đây. Thế nhưng khi được huy động, đã có những cô giáo rất trẻ đã can đảm tìm lên.
Đưa con đi tìm cô, tìm chữ là hình ảnh hết sức ấn tượng trong mùa đến trường của đồng bào vùng cao
Cô giáo Hà, Lê Thị Hà là một trong những con người như vậy. Cô vẫn nhớ ngày mình lên đây để dậy trẻ. Sáng, Phòng giáo dục dưới gần khu Phong Nha – Kẻ Bàng gặp mặt và động viên. Rồi các cô được “gửi” lên chiếc xe zin “ba cầu” tháng đôi lần lăn bánh vào Thượng Trạch để nhận lớp.
Ngày đầu, đêm đầu là những kỉ niệm không quên trong cô. Miền sơn chướng, đêm sầm sập đến nhanh hơn đồng bằng. Trường bốn bề là núi vây hãm, nhà dân hầu như đều đi ngủ sớm. Buồn, tủi cô đã khóc ròng và vùi mình vào trong giấc ngủ đầy mệt mỏi. Một ý định “đào tẩu” đã đến với cô trong khoảnh khắc này.
Nhưng cô đã không làm được điều ấy vì sáng sau chưa kịp mở mắt thì trưởng thôn đã đưa một tụi trẻ, trứng gà trứng vịt đến với cô. Những đôi mắt khát khao, những niềm tin trẻ thơ cùng câu nói của trưởng thôn: Chúng nó chờ và mong cô lắm! đã làm bước chân cô díu lại với miền hoang vu này.
Đứng lớp, tìm và dỗ để đưa trẻ đến trường cùng sự kính trọng của bà con dân bản đã đem lại cho cô một niềm tin, một tình người. Ngày hai buổi, tháng hơn 200 ngày, những đứa trẻ miền hoang vu đã bập bõm biết đọc, biết hát và làm cho thời gian trôi đi nhanh chóng. Và cũng như Hiền, việc lấy trẻ, lấy nghề làm vui này đã làm cho thời gian nhanh trôi và đưa Hà vào lớp giáo viên gạo cội ở miền Trường Sơn đầy nắng, gió này.
Có lẽ trong lực lượng giáo viên vùng cao, những nữ giáo viên tiểu học được coi là vất vả nhất. Họ là những chiến sĩ “cảm tử”, “xông” vào những nơi “đầu sóng, ngọn gió” và vất vả nhất của nghề. Họ là những người đặt nền móng đầu tiên cho các kí tự chữ Việt. Mà những người như Hiền, như Hà tôi đã gặp chỉ là một trong những lát cắt nhỏ con nhất của ngành này, nghề này nơi gian khó nhất!
Chuyện của những nhà giáo đang gieo chữ, trồng người giữa đại ngàn Trường Sơn
Bỏ mặc những lời khuyên của người thân, sự hiểm nguy luôn rình rập và bao khó khăn bủa vây, những giáo viên "cắm bản" vẫn ngày đêm miệt mài gieo chữ giữa đại ngàn Trường Sơn.
"Gieo con chữ" giữa đại ngàn Trường Sơn
Giữa màu xanh của những miền sơn cước tỉnh Quảng Bình vẫn ngân vang tiếng ê a của những em nhỏ, có bóng hình người giáo chức đang cần mẫn gieo những con chữ với ước mơ xây dựng tương lai tươi đẹp hơn cho những mầm non nơi đại ngàn.
Cô Cao Thị Hoằng tới nhà trò chuyện cùng phụ huynh và học trò
Để tới được Trường Phổ thông dân tộc bán trú tiểu học và THCS số 2 Trọng Hóa nằm trên địa bàn xã biên giới nghèo Trọng Hóa thuộc huyện Minh Hóa chúng tôi phải vất vả gần cả buổi sáng, vượt hàng chục km đường rừng hiểm trở.
Chia sẻ với chúng tôi, thầy Trần Trọng Lam, Phó Hiệu trưởng nhà trường, cho biết, với những người dân xã Trọng Hóa, cái đói, cái nghèo luôn là nỗi lo thường trực, vậy nên việc học tập của con cái chưa được quan tâm đúng mức.
"Trọng Hóa có 8 điểm trường với 527 em học sinh, đa số các em là người dân tộc thiểu số nên việc dạy học cho các em gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng các thầy cô luôn nỗ lực hết mình để các em có được kiến thức, sau này có cuộc sống tốt hơn", thầy Lam cho biết.
Vào thăm Bản Si, trò chuyện cùng cô Cao Thị Hoằng, giáo viên cắm bản, chúng tôi trân quý hơn những hy sinh và đóng góp của những người gieo chữ giữa đại ngàn. Cô giáo Hoằng cho biết mình đã có gần 10 năm cắm bản ở các điểm trường vùng biên giới xã Trọng Hóa. Kể về những ngày đầu mới lên cắm bản, bao khó khăn về cơ sở vật chất, điều kiện ăn ở, đi lại cùng sự bất đồng ngôn ngữ bủa vây như muốn xua đuổi người người giáo viên trẻ khỏi núi rừng. Thế nhưng tình yêu thương đối với những đứa trẻ người Khùa, người Mày nơi đây đã là động lực để cô cùng đồng nghiệp vượt khó bám trụ.
"Ở giữa rừng, học sinh chủ yếu là người đồng bào nên việc dạy và học khó khăn rất nhiều so với vùng xuôi. Phương pháp dạy cũng cần có những thay đổi phù hợp với các em. Thương các em nên tôi mong sao kiến thức giúp tương lai của các em tốt đẹp hơn", cô Hoằng cho biết.
Cô giáo cắm bản Đỗ Thị Hồng Lê kể về những kỷ niệm với học sinh.
Tại bản Nước Đắng, xã Trường Sơn, huyện Quảng Ninh, cô Đỗ Thị Hồng Lê cũng hằng ngày "gieo con chữ" cho những em nhỏ người Bru - Vân kiều. Cô phải xa con, xa chồng, xa người thân, bạn bè, cuộc sống khó khăn thiếu thốn để hoàn thành ước mơ và nhiệm vụ trồng người giữa rừng.
"Lên đây, cuộc sống khó khăn, muốn vào bản phải đi thuyền cả tiếng từ trung tâm xã. Nhiều lúc, tôi khóc thầm vì nhớ con, nhớ nhà. Cũng may các em cũng có cố gắng học tập, dân bản thương yêu nên có thêm động lực để dạy dỗ các em", cô Hồng Lê cho biết.
Với những thầy cô đang cắm bản, họ phải trải qua những ngày tháng đầy gian khó. Họ phải đánh đổi biết bao mồ hôi, nước mắt, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng để gieo chữ, gieo tương lai cho những mầm non giữa đại ngàn.
Người thầy dầm mình trong cơn lũ giúp đỡ người dân
Không chỉ dạy cái chữ cho học sinh, một số nhà giáo còn dùng hành động thực tiễn của bản thân để dạy học sinh cách "làm người có ích". Thầy Võ Văn Chính (SN 1990), giáo viên Trường Tiểu học Quảng Phương A, huyện Quảng Trạch (Quảng Bình), người đã không quản ngại khó khăn, nguy hiểm để cùng nhóm bạn ứng cứu kịp thời, cấp phát lương thực cho nhiều người dân trong cơn lũ dữ sau giờ tan trường.
Đại diện Báo Gia đình và Xã hội trao quà cho giáo viên cắm bản tại hai bản Nước Đắng và Hôi Ráy, xã Trường Sơn, huyện Quảng Ninh, Quảng Bình
Theo dòng hồi tưởng, đêm 18/10, nước từ thượng nguồn sông Gianh đổ về nhanh khiến vùng quê của thầy Chính bị nhấn chìm trong lũ. Nhiều người dân bị nước lũ bủa vây không kịp sơ tán, di dời đồ đạc.
Không thể khoanh tay đứng nhìn cảnh người dân gặp nguy hiểm, thầy Chính cùng nhiều người lập nhóm mượn 2 chiếc thuyền Combosite, gắn sẵn chân vịt của người dân ở xã Cảnh Dương và vài chiếc thuyền thúng để lên đường cứu người. Khi đi cứu người, vì sợ vợ và người thân lo lắng nên thầy Chính đã giấu và "lừa" vợ là đi trực lũ tại trường.
"Nếu mình nói ra thì sợ rằng vợ sẽ lo lắng không cho đi. Nhưng trước cảnh người dân kêu cứu trong cơn lũ thì mình đứng ngồi không yên. Vì vậy nên tôi quyết định vờ nói với vợ là đi trực trường để đi cứu người", thầy Chính cười cho biết.
Thầy Võ Văn Chính (ngoài cùng bên phải) cùng nhiều người dầm mình trong lũ giúp người dân
Hỏi trong cơn lũ dữ đã cứu giúp được bao nhiêu người thì thầy Chính cũng không nhớ rõ vì: "Lúc ấy chỉ biết nhanh chóng cứu người chứ cũng chẳng đếm để làm gì". Nhưng kỷ niệm đáng nhớ nhất vẫn in sâu trong đầu của thầy.
Khi di chuyển đến xã Quảng Minh, nơi có nhiều người dân sống ở vùng cồn nổi. Lũ lớn đổ về khiến cả xã Quảng Minh chìm trong biển nước cả đoàn len lỏi tới từng nhà dân để tìm người cần giúp đỡ. "Nước lũ sông Gianh vây tứ phía, chảy xiết nên rất nguy hiểm. Chiếc thuyền chở anh em nhiều lần suýt bị lật úp. Tuy vậy, lúc đó cứ nghĩ đến cứu người cấp tốc nên ai cũng không biết sợ. Bây giờ nghĩ lại mới thấy sợ", thầy Chính hồi tưởng.
Mưa ngày càng nặng hạt, nước lũ càng dâng cao, thầy Chính cùng nhóm tìm đến nhà người phụ nữ mới sinh chừng 5 hôm đang bị mắc kẹt. Lúc ấy, trong nhà chỉ có 2 mẹ con, nước lũ lúc này đã dâng ngập hơn 3m, người mẹ phải bế con leo lên nóc nhà tránh lũ. Ướt do nước lũ, hai mẹ con họ run cập cập, đứa con lạnh và đói sữa khóc như đứt hơi.
Tiếp cận và đưa hai mẹ con lên thuyền, các thành viên trong đoàn nhanh chóng lấy áo ấm khoác cho hai mẹ con mẹ rồi đưa cho người mẹ hộp cơm ăn tạm chống đói, rồi chở 2 mẹ con tới trụ sở xã tránh lũ an toàn.
Thầy Chính còn kêu gọi và chuyển đến người dân nhiều phần quà.
Cùng với việc mò mẫm trong đêm cứu người, thầy Chính cùng nhóm lái thuyền tiếp tế lương thực cho người dân ở các thôn Minh Tiến, Minh Hà, Tân Định... (xã Quảng Minh) và các thôn La Hà Tây, La Hà Đông (xã Quảng Văn).
Trở về nhà sau 3 ngày dầm mình trong dòng nước lũ, thầy Chính mới biết nhà mình cũng bị ngập hơn 1m. Các vật dụng tivi, tủ lạnh, máy giặt... cùng mấy tạ thóc không được di chuyển lên chỗ cao bị ngâm nước hư hỏng. Vợ thầy Chính vì lo và thương chồng nên có những câu "trách yêu", nhưng trong suy nghĩ luôn ủng hộ việc làm tốt của chồng.
Trao đổi cùng thầy Dương Ngọc Tú, Phó trưởng Phòng GD&ĐT huyện Quảng Trạch được biết, Trường Tiểu học Quảng Phương A đã đề xuất để làm quy trình lên cấp trên khen thưởng vì hành động dũng cảm cứu người nhưng thầy Chính đã từ chối. "Mong rằng sẽ có nhiều hành động đẹp tuyên dương của một nhà giáo vì dân như thầy Chính, đây là hành động đẹp, xả thân mình để cứu dân. Rất đáng biểu dương và khâm phục", thầy Tú cho biết.
Những người thầy nuôi dạy học sinh bán trú ở vùng biên Với đặc thù là tỉnh vùng cao biên giới còn nhiều khó khăn, nhưng các thầy cô giáo ở những điểm trường tại huyện Mường Tè (Lai Châu) luôn nỗ lực vượt khó để nuôi dạy học sinh bán trú. Bữa ăn bán trú của các em học sinh Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Thu Lũm, huyện Mường Tè...