Vượt suối, băng rừng, đưa từng học sinh đến lớp
Dù năm học mới đã bắt đầu được nửa tháng, nhưng hiện giáo viên của huyện miền núi Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi, vẫn phải nỗ lực đến từng bản làng, vào từng nhà dân để vận động học sinh đến lớp.
Vào bản tìm học trò
Một ngày giữa tháng 9/2019, phóng viên đã được cùng giáo viên Trường Phổ thông dân tộc bán trú tiểu học và trung học cơ sở Sơn Bua, huyện Sơn Tây, đến từng nhà học sinh để vận động các em đến lớp. Điều đáng nói, để đến được nhà các em chỉ có một cách duy nhất là phải đi bộ, trèo núi, lội suối và vượt qua chiếc cầu “tử thần”.
Người dân qua cầu treo nguy hiểm.
Chiếc cầu treo trên đường đến khu dân cư Nước Mù có chiều dài khoảng 110 mét. Trước đây, cầu đã bị lũ lụt cuốn trôi, từng được Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Sơn Tây sửa chữa, được Tỉnh đoàn Quảng Ngãi hỗ trợ thép để gia cố lại. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của thời tiết nên 2 trụ đã hư hỏng nặng, lộ ra các lõi thép hoen rỉ, mỗi lần có người qua lại, cây cầu rung lắc mạnh, vô cùng nguy hiểm.
Sau khoảng 40 phút băng qua con đường núi trơn trượt và chiếc cầu treo nguy hiểm, chúng tôi đã nhìn thấy những ngôi nhà đầu tiên của bà con khu dân cư Nước Mù. Vừa nhìn thấy các giáo viên thì các em nhỏ nơi đây liền chạy trốn. Theo các thầy, cô giáo thì các em sợ giáo viên đến “bắt” chúng đến lớp vì hôm nay ngày thường, phải đi học.
Hầu hết người lớn trong khu dân cư Nước Mù đều không biết chữ, vì thế họ cũng ít quan tâm đến việc học của con. “Đặc điểm của các em học sinh ở đây là một em nghỉ thì các em khác cũng nghỉ theo để chơi cùng nhau. Do đó, để các em đến lớp đầy đủ là điều không dễ dàng. Giáo viên của trường phải thường xuyên đi xin quần áo, sách vở để các em đến lớp có đồ mặc, có sách vở học”, thầy Nguyễn Văn Ánh, Hiệu trưởng Trường Phổ thông dân tộc bán trú tiểu học và trung học cơ sở Sơn Bua cho hay.
Người dân ở Nước Mù rất đông con như gia đình ông Đinh Văn Núi có đến 10 con, trong đó có 7 con đang là học sinh của trường mầm non, tiểu học và cả trung học cơ sở. Tuy nhiên, hôm nay chỉ có một cháu đang đi học, còn 6 người con trốn học ở nhà. Ông Núi hồn nhiên cho biết: “Đầu tuần đưa tụi nó đi học, nhưng tụi nó buồn, nhớ nhà thì tự về chơi. Khi nào chúng thích thì lại lên trường thôi!”.
Rời nhà ông Núi, các giáo viên lại đến một số gia đình khác nói chuyện với các bậc phụ huynh để họ sớm đưa con em đến lớp. Tại đây, các giáo viên phát hiện em Đinh Thị Thận (năm nay lên lớp 5) chưa đến lớp ngày nào kể từ khi năm học mới bắt đầu. Thận được cha mẹ đưa từ địa phương khác về khu dân cư Nước Mù để ở với ông bà. Nhưng do cha mẹ em không biết chữ, lại không biết phải đưa con lên lớp nào, nên dù năm học mới đã qua nửa tháng nay, Thận vẫn chưa được đến lớp.
Thầy Ánh đã hướng dẫn tận tình cho phụ huynh của em Thận để họ hoàn thành thủ tục nhập học cho em. Đồng thời, thầy cũng “đặc cách” cho Thận để em đến lớp trước khi em có đầy đủ hồ sơ.
Chị Đinh Y Mới, mẹ em Thận, cho biết: “Tôi không biết chữ, cũng muốn con đi học cho giỏi để biết chữ. Tôi sẽ sớm về nơi ở cũ rút học bạ để con đi học tiếp”.
Chăm học trò như chăm con
Trường Phổ thông dân tộc bán trú tiểu học và trung học cơ sở Sơn Bua có 422 học sinh, trong đó bậc tiểu học có 12 lớp, trung học cơ sở có 4 lớp. Trường có 170 học sinh bán trú, nhưng có 200 học sinh ăn cơm trưa tại trường. Điều đặc biệt là dù các em bán trú này có đến lớp đầy đủ hay không nhưng suất cơm cho các em vẫn phải chuẩn bị đầy đủ, vì việc các em nghỉ học nhưng giờ ăn lại có mặt đã trở thành chuyện “thường”.
Thầy Nguyễn Tấn Đức, giáo viên Trường Phổ thông dân tộc bán trú tiểu học và trung học cơ sở Sơn Bua, cho hay: “Các em vắng học chưa hẳn đã về nhà, có thể là bỏ đi chơi, đến lúc đói lại về trường ăn cơm. Cũng có những em về nhà, nhưng đến giờ ăn lại đến trường ăn. Vì đi học kiểu “giã gạo” như vậy nên khi không theo kịp bài giảng các em lại thêm chán nản, trốn tránh các buổi học”.
Để đảm bảo việc dạy và học, nhiều năm nay Trường Phổ thông dân tộc bán trú tiểu học và trung học cơ sở Sơn Bua đã tổ chức bán trú cho học sinh từ lớp 1 đến lớp 9. Tuy nhiên, việc tổ chức bán trú cho các em bậc tiểu học tạo ra nhiều khó khăn cho cán bộ, giáo viên nhà trường bởi các em còn quá nhỏ, chưa thể tự lập trong việc vệ sinh cá nhân.
“Đầu tuần, nhiều em khi được cha mẹ đưa đến thì còn đu bám không chịu vào lớp. Nhưng khó khăn nhất đối với giáo viên là vào giờ ăn và ban đêm, các em còn quá nhỏ nên chưa thể tự vệ sinh cá nhân, vì vậy giáo viên phải tắm, rửa cho các em. Trường lại không có cán bộ chuyên phụ trách công tác bán trú nên phải cắt cử các giáo viên thay nhau trực. Có những đêm khi một em kêu đau là các em khác cùng phòng cũng kêu đau, Ban giám hiệu nhà trường phải tới đưa các em đến Trung tâm y tế, đồng thời hỗ trợ trông coi các em còn lại”, thầy Ánh kể lại.
“Để đưa được con chữ đến với học sinh vùng cao đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn của giáo viên không chỉ về chuyên môn, mà còn về sự kiên trì, chịu khó, tận tình, nhiệt huyết. Con đường các em đến trường vất vả bao nhiêu thì con đường để chúng tôi truyền dạy con chữ cho các em cũng khó khăn bấy nhiêu. Nhưng chúng tôi đã và đang nỗ lực hết mình để đưa con chữ đến cho các em, hi vọng các em có tương lai tươi sáng hơn”, thầy Ánh bày tỏ.
Đinh Thị Hương
Theo TTXVN
Cô giáo Vuông không nhỏ bé ở Huổi Thủng 2
Ẩn sau bên trong cô giáo nhỏ bé người dân tộc Thái ở điểm trường Huổi Thủng 2 (xã Na cô sa, Nậm Pồ, Điện Biên) là một nghị lực lớn, quyết tâm với nghề giáo
Từ Nà Khoa, thầy giáo Thuận đưa chúng tôi đến xã Na Cô Sa ( Nậm Pồ, Điện Biên), chưa đầy 20km nhưng chúng tôi phải di chuyển trên con đường trải đá cấp phối, đường đất đỏ gập ghềnh.
Con đường bám trên những triền đồi hoang vu, đâu đó mới có bóng nhà dân.
Thầy Thuận bảo, do tập tính của người dân tộc Mông ở khu vực này các làng, các bản đều ẩn sâu trong núi.
Quả thật, cả quãng đường từ Nà Khoa đến với Na Cô Sa chúng tôi hầu như gặp rất ít nhà dân. Tất cả chỉ là những cánh rừng tạp, xen lẫn là những nương lúa tẻ Mèo của người dân vùng biên.
Con đường đất đỏ như một vết gạch dài đằng đẵng, ngoằn ngoèo bám trên những triền đồi tưởng như không có điểm cuối cùng.
Na Cô Sa nơi chúng tôi sắp dừng chân là một xã biên giới với hơn 17km đường biên giáp Lào, trải rộng trên diện tích tự nhiên hơn 12.000ha, dân cư trên địa bàn 98% là người Mông, trình độ dân trí còn thấp.
Điểm trường Huổi Thủng 2 nơi chỉ có 1 mình cô giáo Lò Thị Vuông công tác dạy học.
Trước đây đã từng có thời kỳ Na Cô Sa có cả trăm người nghiện ma túy. Nếu Nậm Pồ là một trong những huyện nghèo nhất của Điện Biên thì Na Cô Sa cũng là xã nghèo nhất của huyện Nậm Pồ.
Sau hơn 1 giờ leo đồi bằng xe máy của thầy giáo Thuận, chúng tôi gặp thầy giáo Nguyễn Văn Quân, Hiệu trưởng Phổ thông bán trú Tiểu học Na Cô Sa.
Dù nhiều việc tất bật những ngày đầu năm học, tạm biệt thầy giáo Thuận, nhanh chóng đưa chúng tôi tới điểm Huổi Thủng 2, nơi có cô giáo Lò Thị Vuông công tác.
Điểm trường Huổi Thủng 2 không nằm trên những triền cao chót vót hay lọt thỏm trong thung lũng mà nằm ngay bên trườn dốc, ven đường liên huyện.
Khác với những điểm trường vùng cao khác, tuy không có địa hình phức tạp nhưng Huổi Thủng 2 lại rất phức tạp về đời sống xã hội, tôn giáo.
Thầy giáo Quân cho biết, nhiều năm nay, nhà trường đã cùng với chính quyền địa phương rất vất vả mới có thể đưa được các em học sinh trong độ tuổi ra lớp.
Đó không chỉ là sự vận động của các thầy cô giáo mà cả một hệ thống chính trị địa phương.
Khi chúng tôi đến, lớp học của một cô giáo có ngoại hình khá nhỏ bé vẫn đang mải tập những nét chữ đầu đời.Nhờ công tác xã hội hóa và kêu gọi từ các cấp các ngành địa phương của huyện Nậm Pồ và sự vận động của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Nậm Pồ, sự góp sức của tập thể giáo viên nhà trường, điểm trường Huổi Thủng 2 có một cơ sở vật chất khá tươm tất, khang trang.
Thấy chúng tôi, cô giáo hơi ngượng ngùng lũ trẻ cũng bắt đầu chú ý đến sự xuất hiện của người lạ.
Hoàn thành nốt bài học, chúng tôi mới có dịp ngồi trò chuyện với cô giáo.
Cô giáo Lò Thị Vuông, người dân tộc Thái ở huyện Tuần Giáo (Điện Biên), mới chỉ 26 tuổi nhưng cô Vuông đã có "thâm niên" ở đất Na Cô Sa này đến 4 năm.
Sau ngày ra trường, được sự động viên của chồng, cô Vuông rời xa gia đình, con nhỏ lên với những lớp học nơi vùng biên cương Na Cô Sa.
Cô giáo Lò Thị Vuông uốn nắn từng nét chữ cho từng em nhỏ người dân tộc thiểu số. (Ảnh: LC)
Là người trẻ, đầy nhiệt huyết, ngay từ ngày mới đến, cô giáo Vuông đã sẵn sàng đi điểm Na Cô Sa 3, một điểm trường lúc đó chỉ là những căn nhà tạm bợ.
Nhưng vượt lên những khó khăn, cô Vuông đã hoàn thành tốt công tác dạy học tại điểm trường này.
Đến nay, điểm trường đã có cơ sở vật chất tốt hơn, cô Vuông đi đến Huổi Thủng 2, một điểm trường có nhiều khó khăn khác.
Dù mới công tác chưa lâu nhưng cô giáo Lò Thị Vuông là một trong những giáo viên tiêu biểu của trường Phổ thông bán trú Tiểu học Na Cô Sa khi là lao động tiên tiến 3 nam liên tục, 2 năm là giáo viên dạy giỏi cấp huyện và liên tục là giáo viên dạy giỏi cấp trường.
Hiện cô Vuông cũng là tổ phó tổ chuyên môn khối 1.
Buổi học ngày thường tại lớp học của cô giáo Lò Thị Vuông. (Ảnh: LC)
Chuyên môn vững là thế, tâm huyết là thế những cô giáo Vuông cũng có những góc khuất của riêng mình.
Trong lúc tâm sự với chúng tôi, mắt cô giáo Vuông rưng lệ khi nghĩ về con nhỏ.
Xa con từ khi còn ẵm ngửa, đằng đẵng những ngay xa con, dù nhớ, dù thương nhưng cô Vuông vẫn phản nén lòng mình hoàn thành nhiệm vụ.
Có lẽ cô Vuông cũng như bao cô giáo vùng cao trên những điểm trường khắp miền Tây Bắc này đều đau đáu nỗi buồn khi những tiếng nói đầu đời của con mình không được dạy.
Và tiếng gọi đầu của con là chữ bà, chữ ông chứ không phải chữ bố, chữ mẹ.
"Học sinh của em cũng đi xa hơn em nhiều, em đi bộ thế cũng chưa là gì", cô Vuông cười, chia sẻ với chúng tôi.Khác với các cô giáo vùng cao khác, đa phần các cô đều là những "tay lái lụa" trên vùng biên cương đi khắp bản, cô giáo Vuông người quá nhỏ nên... đi bộ nhiều hơn là đi xe máy.
Có những học sinh ở tít những điểm đồi xa, cách trường 2 - 3 quả núi nhưng cô Vuông vẫn đến thăm các em mỗi khi các em ốm hoặc đến mùa vận động trường, đường xa không làm đôi chân của cô giáo có thân hình nhỏ bé mệt mỏi.
Chừng ấy năm công tác trong vùng khó, vượt qua nỗi nhớ nhà, nhớ chồng, nhớ con, cô Vuông bảo cô chưa từng bao giờ có ý nghĩ xa rời nghề giáo. Bởi cô đã chọn và yêu nó từ lúc nào không hay.
Đường đến điểm trường Huổi Thủng 2 của cô giáo Lò Thị Vuông
"Em ở đây cũng không vất vả lắm khi anh chị em trong trường gắn bó với nhau, coi nhau như anh em ruột thịt trong nhà nên nhiều lúc cũng vơi nỗi nhớ nhà.
Bây giờ có công nghệ thông tin nữa, nên việc liên lạc về với con cái đỡ vất vả hơn nhiều. Dù nhớ nhưng hình ảnh của con mình vẫn theo dõi được nên cũng đỡ phần nào anh ạ", cô Vuông tâm sự.
Nói về cô giáo Vuông, thầy giáo Phạm Văn Quân Hiệu trưởng trường Phổ thông bán trú Tiểu học Na Cô Sa cho biết: "Cô giáo Vuông là một cô giáo có nghị lực lớn. Tuy người nhỏ vậy thôi nhưng tâm huyết lớn lắm đấy."
Và ở Na Cô Sa còn rất nhiều thầy cô giáo có quyết tâm và nghị lực lớn như cô giáo Lò Thị Vuông.
Trần Phương
Theo giaoduc.net
Ước mơ có con đường nối nóc với thôn và xã Dù có nhiều khó khăn, nhưng qua những ngày gắn bó với các em nhỏ là học sinh thân yêu cùng chia sẻ, động viên của các cấp chính quyền và đồng bào, đã cho chúng tôi sự trải nghiệm, thấy được sự ý nghĩa trong sự nghiệp "gieo chữ" nơi vùng cao khó khăn... Đó là những tâm sự hết sức chân...