Vui buồn gieo chữ
Một thời gian khổ, gắn bó với Tây Bắc 15 năm, nay người còn người mất, ai cũng thấy bùi ngùi, thương nhớ trong lần gặp mặt hiếm hoi…
Tôi thuộc lớp người sinh ra trước Cách mạng tháng Tám một năm. Phong trào Bình dân học vụ được Bác Hồ phát động lúc tôi được hơn một tuổi chưa biết gì. Song, chỉ thấy ba tôi đi suốt ngày, hỏi ra mới biết ba đi hoạt động cách mạng trong phong trào Việt Minh và giờ đang tham gia dạy xóa nạn mù chữ cho bà con trong xã.
Cũng nhờ phong trào này mà mẹ tôi và các anh chị tôi được đi học biết chữ. Sau này lớn lên tôi càng hiểu rõ việc diệt “giặc dốt” là rất quan trọng. Và bản thân, tiếp bước cha anh, tôi lại theo nghề dạy học, tham gia dạy bổ túc văn hóa cho tới ngày nghỉ hưu.
Biết bao kỷ niệm vui buồn theo tôi từ những lớp học Bình dân học vụ sau Cách mạng tháng Tám đến các lớp mẫu giáo, tiểu học, trung học và đại học… Rồi ra trường lên Tây Bắc khi dạy ở Trường Sư phạm Nghĩa Lộ (Yên Bái), tôi lại tham gia dạy xóa mù chữ cho đồng bào dân tộc. Khi dạy sư phạm, phổ thông, khi làm cán bộ chuyên môn ở Phòng Giáo dục, Sở Giáo dục, phụ trách Trung tâm Giáo dục thường xuyên (thực chất là các lớp bổ túc văn hóa cho cán bộ, công nhân và học sinh quá độ tuổi đi học phổ thông) tôi vẫn có duyên với bổ túc văn hóa.
Nhớ lại chỉ một ngày sau Cách mạng tháng Tám thành công, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ, ngày 3/9/1945 tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị mở chiến dịch “Chống nạn mù chữ”. Bác nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Đến ngày 8/9/1945, Chính phủ lâm thời nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành ngay sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ. Việc học chữ quốc ngữ bắt buộc cho tất cả mọi người.
Đầu tháng 10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi chống nạn thất học”. Bác viết: “Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí… Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ, hãy góp sức vào Bình dân học vụ. Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết…”.
Người dân đã bảo nhau: “Cụ Hồ lo việc học hành/ Chỉ mong non nước rạng danh muôn đời”. Phong trào Bình dân học vụ nhanh chóng lan rộng khắp cả nước. Các lớp học được mở khắp nơi, trong nhà dân, trong đình chùa… chỉ cần mấy chiếc ghế băng, ghế tựa đặt quanh bàn, quanh chiếc phản, và lấy cánh cửa, tấm ván mộc làm bảng là đã thành lớp học, không có phấn thì dùng gạch non, than củi để viết.
Một lớp Bình dân học vụ. Ảnh: Tư liệu.
Các đội nhi đồng cứu quốc, đốt đuốc, khua trống ếch đi quanh làng cổ động người dân đi học. Tại các nơi nhiều người qua lại, như các ngõ xóm, điếm canh, cổng đình, cổng làng, người ta treo nong, nia, mẹt trên viết các chữ cái bằng vôi để ai đi qua cũng có dịp đọc, ôn các chữ đã học. Cách học được ca dao hóa:
i, t (tờ), có móc cả hai.
i ngắn có chấm, t (tờ) dài có ngang
e, ê, l (lờ) cũng một loài.
Video đang HOT
ê đội nón chóp, l (lờ) dài thân hơn
o tròn như quả trứng gà
ô thì đội mũ, ơ là thêm râu
o, a hai chữ khác nhau
vì a có cái móc câu bên mình.
Để thúc giục người dân học chữ, một số nơi còn dựng “cổng sáng” và “cổng mù” ở đầu chợ để “đố chữ”. Người muốn vào chợ phải đọc vài chữ, ai đọc được thì cho đi “cổng sáng” sạch sẽ. Ai không biết đọc thì phải đi “cổng mù”, “cổng tối” có sình lầy, cỏ gai để vào chợ. Có những câu ca dao lấy tiêu chuẩn biết “xóa mù” làm nét đẹp hơn hình thức: “Hỡi cô má đỏ hồng hồng/ Vì cô mù chữ cho chồng cô chê”.
Sau này lớn hơn, khoảng 5 – 6 tuổi, tôi được ba dạy cho biết 24 chữ cái rồi đưa đến nhà một ông “giáo làng” để xin học chữ quốc ngữ và toán (bây giờ gọi là lớp mẫu giáo). Mỗi tối tôi thường cùng các bạn thiếu niên đi rước đuốc, gõ trống để kêu gọi người dân ra đình học lớp xóa mù chữ. Theo thống kê thì lúc đó dân ta hơn 95% là mũ chữ.
Phong trào Bình dân học vụ ngày càng rầm rộ khắp thôn cùng ngõ vắng sau khi ta tạm thời diệt được “giặc đói”, còn “giặc ngoại xâm” phải đánh lâu dài. Những năm 1954 – 1956 thì việc xóa mù chữ càng phát triển mạnh. Người cày có ruộng, đời sống người dân sau 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp đã được cải thiện, nên việc học càng được ưu tiên hơn. Tới đâu ta cũng thấy có các lớp bổ túc văn hóa trong nhà, ngoài đình cho đủ mọi lứa tuổi. Bên ngọn đèn dầu leo lét từ em nhỏ tới cụ già thi nhau đánh vần a, b, c theo tiếng gõ thước lên bảng của người dạy.
Những năm học cấp 1 ở xã hay học cấp 2, cấp 3 ở huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa), dịp nghỉ hè ba tháng, tôi lại tham gia dạy bổ túc văn hóa, hoặc đi viết khẩu hiệu trên tường, trên nong nia của mỗi nhà để ngoài cổng, cổ vũ cho phong trào “xóa mù”. Ví dụ viết những câu dao như: “Chúng ta vâng lệnh Cụ Hồ/ Cả nhà học tốt giành cờ thi đua”. Hay “Học là học để làm người/ Biết điều nhân nghĩa, biết lời thị phi”. Hoặc “Làm người muốn được khôn ngoan/ Phải ra sức học đàng hoàng mới hay”.
Sau này khi đi dạy học, tôi vẫn tiếp tục tham gia dạy các lớp bổ túc văn hóa ban đêm cho nhiều đối tượng. Năm mới ra trường, tôi xung phong lên miền núi Tây Bắc dạy học theo phong trào “Ánh sáng văn hóa” đem chữ Cụ Hồ tới với đồng bào vùng cao của Khu tự trị Tây Bắc, theo lời kêu gọi của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng lúc bấy giờ: “Tây Bắc là hòn ngọc ngày mai của Tổ quốc”. Ngoài giờ lên lớp chính thức ở Trường Sư phạm dân tộc Nghĩa Lộ, thì ngày Chủ nhật và tối thứ 7 tôi dạy lớp bổ túc văn hóa cho bà con dân tộc Thái, Tày ở các bản Đại Lịch, Thanh Lương, Phúc Sơn, Nghĩa Sơn… Làm sao để bà con nơi đây biết đọc, biết viết, biết ký các giấy tờ khi cần là tốt rồi, để họ khỏi phải điểm chỉ nữa.
Những năm 1966 – 1975, tôi dạy xóa mù chữ theo phương pháp dạy bài thơ hay bài hát đơn giản cho họ thuộc trước. Sau đó mới phân ra từng chữ theo các câu. Với cách dạy này thì chỉ sau 3 tuần là người học biết được 24 chữ cái và ghép vần để đọc.
Chúng tôi thường lấy bài Quốc ca ra dạy, một công đôi việc. Người học vừa thuộc bài Quốc ca để tỏ lòng yêu nước vừa biết được các chữ cái trong bài đó để ghi nhớ, rồi từ đó suy ra các chữ khác. Ví dụ câu: “Đoàn quân Việt Nam đi”, thì có các chữ cái: đ, o, a, n, q, u, â, v, i, ê, t, m… Từ đó tập ghép vần (Ví dụ chữ đoàn: thì đọc là: oa nờ oan, đờ oan đoan, huyền đoàn). Sau 3 tháng học thì cơ bản người dân đã biết đọc biết viết những câu đơn giản.
Những năm về làm cán bộ chuyên môn Phòng Giáo dục huyện Văn Chấn (Yên Bái), tôi được phân công phụ trách mảng bổ túc văn hóa của các huyện, thị. Mỗi lần đi kiểm tra từ trung tâm thị xã tới các xã vùng cao xa nhất là hơn 100km, đi bộ mất gần 3 ngày mới tới, đi xe đạp thì vừa đi vừa dắt mất hơn một ngày. Khi trời tối thì vào nhà dân bản hoặc vào trường học, cơ quan nào gần đường xin nghỉ qua đêm. Dân bản hoặc anh em các cơ quan tốt lắm, gặp nhau là quý như anh em một nhà.
Vào nhà của người dân tộc thiểu số, thì câu hỏi trước tiên của họ là “Cán bộ ăn cơm nhà ta đi”, rồi họ mời ngồi bên bếp lửa cho ấm. Một lát đã thấy “ải êm” (cha mẹ), hoặc “noọng” (em gái) đem cơm nếp để trong cái “ớp” ra mời “kin khẩu” (ăn cơm). Họ lấy vài thẻ thịt heo hay thịt thú rừng treo trên gác bếp xuống, cho vào bếp nướng vài phút là chín, đem ra ăn với xôi, đôi khi lại có cả măng vầu nướng chấm muối ớt hoặc trái cọ, trái trám muối chua, ăn ngon lắm. Vừa ăn vừa uống rượu nói chuyện vui vẻ… Sáng ra lại đi…
Có lần vượt đèo Lũng Lô khi lên 7km, khi xuống 5km, hoặc vượt đèo Khau Phạ ở huyện Mù Cang Chải cả lên và xuống dốc gần 30km. Rồi các đèo Ách, đèo Bẳn, đèo Cuồng… vất vả vô cùng. Nhưng khi đến với các lớp học bổ túc văn hóa ở vùng cao, dù lớp chỉ vài ba học viên ở trình độ khác nhau, nhưng vẫn thấy vui, quên cả mệt nhọc và các thấy thương các thầy cô giáo lắm. Nhà thơ Lê Đình Cánh đã viết: “Em đi “bán chữ” trên rừng/ Đã qua mặn ngọt, đã từng cay chua/ Đất nghèo, chữ ít người mua/ Ế hàng không nỡ phân bua nửa lời…” (Em đi).
Năm 2018, sau gần 40 năm xa Nghĩa Lộ, tôi trở lại thăm con người và mảnh đất nơi đây. Tất cả đã đổi thay nhiều. Nhà cao tầng, nhà hàng khách sạn mọc lên ở thị xã Nghĩa Lộ, các bản làng hầu như không còn túp lều lợp bằng cỏ tranh mà thay vào đó là nhà lợp gỗ hay lợp ngói, lợp tôn hoặc phibro xi măng. Nhiều em hồi học Sư phạm, học bổ túc văn hóa nay đã là cán bộ huyện, cán bộ xã phần lớn cũng đã lần lượt nghỉ hưu. Vây quanh vòng xòe cùng múa với các em hát lại những bài ca năm xưa mà lòng thấy rưng rưng, lưu luyến…
Vẻ đẹp Nghĩa Lộ. Ảnh: TL.
Em Sùng A Vư dân tộc Mông làm cán bộ huyện, em Lường Thị Yên làm ở Đài Phát thanh thị xã Nghĩa Lộ, em Nguyễn Thị Thuận, Trần Thị Nghĩa làm Hiệu trưởng trường Tiểu học… và các thầy cô giáo trường sư phạm bên mâm cơm ly rượu ôn lại kỷ niệm xưa – một thời gian khổ, gắn bó với Tây Bắc 15 năm. Nay người còn người mất, ai cũng thấy bùi ngùi, thương nhớ trong lần gặp mặt hiếm hoi này.
Cuối thập niên 70 của thế kỷ trước, chiến tranh biên giới nổ ra, tôi lại được tăng cường cho giáo dục miền Nam do Bộ Giáo dục Đào tạo điều động. Có lẽ tôi có duyên với bổ túc văn hóa hay sao, mà khi về Cần Thơ là Sở Giáo dục phân công ngay về dạy Trường Bổ túc văn hóa công nông cấp 2-3 Lý Tự Trọng. Đây là ngôi trường có tiền thân là Trường Bổ túc văn hóa công nông Lý Tự Trọng từ trong chiến khu hồi những năm 1962 – 1963, đóng ở huyện Phan Ngọc Hiển (Cà Mau) để dạy cho con em cán bộ, chiến sĩ, tạo nguồn cán bộ cho khu Tây Nam bộ. Sau giải phóng miền Nam, trường được chuyển về thành phố Cần Thơ, lúc đó thuộc tỉnh Hậu Giang.
Bấy giờ đối tượng đi học ở Trường Bổ túc văn hóa công nông cấp 2-3 Lý Tự Trọng là cán bộ và con em gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng, nên được Nhà nước nuôi hoàn toàn. Các em chỉ học 2 năm 3 lớp mà khi ra trường đều trưởng thành, là nhưng cán bộ cốt cán cho các sở, ban, ngành. Nếu kể cả các em học trong chiến khu cho tới năm 1990, thì có em đã làm Thứ trưởng Bộ Giáo dục như bà Đặng Huỳnh Mai (quê Vĩnh Long), bà Phạm Phương Thảo – Phó Bí thư Thành ủy TP.HCM (quê Bạc Liêu), Trung tướng Nguyễn Việt Quân, Thiếu tướng Vũ Cao Quân (Quân khu 9), Bí thư Thành ủy Cần Thơ – Trần Quốc Trung, Giám đốc Sở Công an Cần Thơ – Nguyễn Văn Thuận, Phó Chủ tịch tỉnh Cần Thơ – Tô Minh Giới, Giám đốc Sở GD-ĐT Cần Thơ – Huỳnh Thị Ngô Minh…
Năm 1990, Trường Bổ túc văn hóa công nông cấp 2-3 Lý Tự Trọng giải thể sau gần 30 năm làm nhiệm vụ đào tạo văn hóa cho hàng ngàn cán bộ nguồn cho các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Trang sử vàng của Trường Bổ túc văn hóa công nông cấp 2-3 Lý Tự Trọng khép lại bằng sự tuyên dương của Chính phủ với danh hiệu “Anh hùng Lao động” cho nhà trường. Trường lại đổi tên và mở ra một trang sử mới là Trường THPT Chuyên Lý Tự Trọng, đào tạo học sinh giỏi, bồi dưỡng nhân tài cho Cần Thơ và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
Ngoài dạy các lớp của Trường Bổ túc văn hóa công nông cấp 2-3 Lý Tự Trọng, tôi còn đi dạy thêm ban đêm cho các lớp bổ túc văn hóa của Trung tâm giáo dục thành phố Cần Thơ theo lời mời của các trường đó. Dạy bổ túc văn hóa có điều khó hơn dạy các lớp phổ thông, vì đa phần người học bị hổng kiến thức cơ bản ở các lớp dưới, hoặc vì bận công việc mà không có thời gian ôn luyện. Người dạy lại phải biết tâm lý lứa tuổi các đối tượng học trong một lớp. Có em đang học dở cấp 2 vì hoàn cảnh phải nghỉ học, có anh chị là bộ đội, công an, công nhân xí nghiệp, có người trên dưới 60 tuổi… đa số là vừa đi học vừa đi làm. Tuy vậy mà nhiều em rất thành đạt, sau này giữ các chức vụ chủ chốt ở các Sở, ban, ngành, đoàn thể…
Những 'bông hoa' góp tuổi xuân cho giáo dục vùng cao
Chặng đường gieo con chữ ở vùng cao gặp nhiều khó khăn vất vả, gian nan nhưng tình yêu nghề và mong muốn một tương lai tươi sáng hơn cho các em nhỏ vùng cao đã thôi thúc các cô giáo ở vùng cao Hà Giang vượt lên tất cả.
Lên vùng cao gieo chữ
Cô Vũ Thị Ý, giáo viên Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học Xín Cái, xã Xín Cái, huyện Mèo Vạc (Hà Giang) đang vận động học sinh đến trường.
Những ngày này, dịch COVID-19 đang diễn biến phức tạp trên địa bàn, các em học sinh phải nghỉ học ở nhà, cô Vũ Thị Ý, sinh năm 1970, giáo viên Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học Xín Cái (xã Xín Cái, huyện Mèo Vạc, Hà Giang) mới có thời gian để ngồi ôn lại những ngày tháng bước chân vào nghề giáo, công hiến cho sự nghiệp "trồng người" ở huyện nghèo vùng cao.
Những năm 1980 - 1990, cuộc sống còn nhiều khó khăn vất vả, gia đình cô Vũ Thị Ý ở xã Bạch Ngọc (huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang) có 7 anh chị em nhưng chỉ có mình cô được theo học hết cấp 3 rồi theo học hệ sư phạm 12 2 tại Trường Sư phạm Hà Giang.
Năm 1990, Vũ Thị Ý nhận quyết định lên dạy học trên huyện vùng cao Mèo Vạc. "Ngày nhận quyết định lên Mèo Vạc, cả đêm tôi không ngủ. Mẹ và chị thương tôi, không muốn cho đi lên nơi xa vắng và khó khăn ấy. Mẹ tôi còn dặn tôi, nếu khổ quá thì về với mẹ. Khi đó đường đi Mèo Vạc rất khó khăn, hiểm trở. Từ thị xã Hà Giang lên Mèo Vạc phải đi mất 2 ngày. Hai ngày say xe không ăn được, lịm trong giấc ngủ, cho tới khi đến Mèo Vạc tôi mới nghĩ mình còn sống" - cô Ý nhớ lại.
Cô Ý cho biết, hơn 13 năm dạy ở Trường Phổ thông Dân tộc Nội trú huyện Mèo Vạc, cô cùng một số giáo viên khác được phân công đi vào các xã vùng sâu, vùng xa, giáp biên giới để dạy lớp xóa mù chữ. Những lần đầu chưa quen, lạ nước, lạ nhà đêm không ngủ được, bọ gà, bọ chó, muỗi và dĩn đốt sưng, ngứa khắp người. Bù lại, đồng bào các dân tộc vùng cao sống tình cảm. Sau khi lớp xóa mù chữ kết thúc, các cô lại di chuyển đi xã khác, bà con lưu luyến, giữ không cho về.
Năm 2010, cô Vũ Thị Ý xung phong vào Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học Xín Cái. Xín Cái là một trong 3 xã biên giới của huyện Mèo Vạc, nơi nổi tiếng với gió rít rợn người vào mùa đông, với cái lạnh cắt da, cắt thịt, có những hôm sương mù dày đặc cả ban trưa. Đường từ trung tâm huyện vào đến xã Xín Cái dài gần 30 km, rất khó đi lại vào mùa mưa. Mùa đông, có những sáng thức dậy, các cô giáo ngỡ ngàng nhìn vườn bắp cải, cây bắp cải như những bông hoa thủy tinh, do sương xuống bám vào bị đóng băng.
"Vào mùa đông, có những hôm trời lạnh, bọn trẻ cóng tay không đưa nổi bút. Tôi lại đi xin quần áo, ủng, tất, giấy vở, bút... cho các em. Bọn trẻ thiếu cái gì là tôi đi xin cái đó, cũ mới không quan trọng, miễn là có. Hằng ngày chứng kiến những hình ảnh học trò nghèo, quần áo mỏng, gầy gò trong buốt giá mà lòng tôi tê tái, thương các em lắm" - mắt cô Ý ngấn lệ khi chia sẻ điều này.
"Chỉ cần mỗi sáng tới trường được nhìn thấy các em học sinh đến lớp đầy đủ, chăm ngoan, chăm chỉ và khôn lớn từng ngày, là hành phúc, động lực để vượt qua mọi khó khăn vất vả" - cô Vũ Thị Ý tâm sự.
Việc dạy học tại một trường ở khu vực biên giới có muôn vàn khó khăn, lực học của các em học sinh không đồng đều, song cô Ý luôn kiên trì, tìm tòi phương pháp mới phù hợp hiệu quả, sau đó chia sẻ cho đồng nghiệp vận dụng để học sinh tiếp thu bài nhanh nhất, hiệu quả nhất. Thầy Đỗ Phi Long, Hiệu trưởng Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học Xín Cái (xã Xín Cái, huyện Mèo Vạc), cho biết: "Cô Ý là tổ trưởng tổ chuyên môn, rất tâm huyết, trách nhiệm, chuyên môn rất giỏi. Cô có nhiều sáng kiến trong phương pháp dạy, luôn chia sẻ kinh nghiệm cho đồng nghiệp, sống thân thiện, chấp hành tốt quy định nghề nghiệp, hằng năm luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao".
Nhiều năm liền là giáo viên dạy giỏi cấp huyện, cấp tỉnh; có nhiều sáng kiến, đề tài nghiên cứu khoa học, phương pháp dạy được áp dụng vào thực tiến. Với những cống hiến thầm lặng vì sự nghiệp "trồng người" của mình, năm 2021 cô Vũ Thị Ý đã vinh dự được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu cao quý Nhà giáo Ưu tú.
Nhiều "bông hoa" đẹp ở vùng cao
Cô Lê Thị Thanh, giáo viên Trường Tiểu học thị trấn Mèo Vạc (Hà Giang) chụp ảnh cùng các em học sinh.
Vào ngành giáo dục trước cô Ý, cô Lê Thị Thanh (sinh năm 1966, quê ở huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang), đã có 33 năm cống hiến, gắn bó với học sinh nghèo vùng cao. Vào nghề từ năm 1988, cô tình nguyện lên công tác tại huyện Mèo Vạc - mảnh đất đầy gian khó nơi cực Bắc. Cô được phân công giảng dạy tại xã Lũng Chinh rồi chuyển qua xã Nậm Ban. Năm 1991, cô về trường Tiểu học thị trấn Mèo Vạc. Cô Thanh cho biết: "Năm 1991, tôi hết nghĩa vụ đi vùng sâu, được chuyển vùng nhưng vì đã trót yêu mảnh đất Mèo Vạc và thương các em học sinh đang thiếu thầy, cô giáo dạy bảo nên tôi quyết định ở lại đây".
Những năm gắn bó với vùng cao, cuộc sống của cô Thanh cũng như nhiều giáo viên khác gặp rất nhiều khó khăn. Khi còn ở điểm trường xã Nậm Ban, hàng ngày cô phải vượt chặng đường hơn 20 km, đường xá đi lại vất vả, cơ sở vật còn thiếu thốn mọi mặt. Không điện, không nước sạch,.. bản thân cô một mình một điểm trường, không biết ngôn ngữ bản địa, một số đồng nghiệp đã bỏ nghề về quê, học sinh thì không đi học,... Đã có lúc cô nghĩ đến chuyện bỏ cuộc, nhưng tình yêu thương các em lại giúp cô Thanh vượt lên tất cả.
"Buổi sáng tôi dạy các em lớp 1. Trẻ nhỏ chưa có ý thức, không thích đi học. Giữ được em này ở lớp thì em khác bỏ về. Có những hôm tôi không gọi được em nào đến lớp vì các em đã theo bố mẹ đi nương. Nhiều lúc bất lực, tôi đứng khóc trên bục giảng như một đứa trẻ. Buổi tối, tôi dạy lớp xóa mù chữ còn khó khăn hơn, lớp học nhiều lứa tuổi, người có vợ, có chồng, người nuôi con nhỏ nên họ ngại đi học" - cô Thanh chia sẻ.
Ngoài kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ thì điều quan trọng nhất mà một giáo viên tiểu học phải có là tình thương yêu, lòng nhân ái, tính chịu khó, kiên trì... Bởi lẽ, học sinh ở lứa tuổi tiểu học còn nhỏ, hiếu động và chưa hiểu ý nghĩa của việc học. Trình độ tiếp cận bài học các em vùng cao cũng chậm hơn so với học sinh ở dưới xuôi.
Hơn 33 năm trong công tác giảng dạy, cô Thanh luôn nhiệt huyết với công việc, từng bước nâng cao kỹ năng giảng dạy, hiệu quả đào tạo được nâng cao qua từng năm. Năm 2017, cô Lê Thị Thanh đã vinh dự được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu cao quý Nhà giáo Ưu tú.
Đánh giá về những cống hiến của các thầy, cô giáo nói chung và của hai Nhà giáo Ưu tú Vũ Thị Ý và cô Lê Thị Thanh nói riêng, ông Bùi Văn Thư, Trưởng phòng Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Mèo Vạc, nêu rõ, những cống hiến của các thầy, các cô đã được ghi nhận trong tâm khảm ở lớp lớp các thế hệ học sinh đã được các cô đào tạo và nay đã trưởng thành, hiện một số đang giữ cương vị quan trọng trong các cơ quan, ban, ngành và các địa phương.
Kỷ niệm 39 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20.11.1982 - 20.11-2021) (*): Thầy cô nâng bước trên mọi nẻo đường Dù bám trường lớp ở vùng sâu hay nơi biên giới xa xôi, đội ngũ thầy cô giáo cống hiến cả tuổi thanh xuân vì tương lai tươi sáng hơn của những học trò còn nhiều thiệt thòi Bản Ón, xã Tam Chung, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa nằm lưng chừng trên đỉnh núi cao, cách cột mốc biên giới 270 khoảng...