Vụ Gang thép Thái Nguyên: Nhà thầu Trung Quốc cấp thiết bị sai chủng loại
Trong “đại án” Gang thép Thái Nguyên, nhà thầu Trung Quốc đã thực hiện nhập khẩu và cấp đến công trường khoảng 35.800 tấn thiết bị, trong đó có nhiều loại máy móc thiết bị không đúng chủng loại.
VKSND Tối cao đã ban hành cáo trạng vụ án “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí” và “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”, xảy ra tại Dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2, Công ty CP Gang thép Thái Nguyên (TISCO) và một số đơn vị có liên quan; đồng thời truy tố 19 bị can có liên quan.
Theo cáo trạng, TISCO là doanh nghiệp nhà nước thuộc Tổng Công ty thép Việt Nam (VNS). Năm 2005, Chính phủ phê duyệt Dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 của TISCO với tổng mức đầu tư hơn 3.843 tỷ đồng, trong đó TISCO thu xếp 375 tỷ tiền vốn, còn lại đi vay các ngân hàng.
14 trong tổng số 19 bị can của vụ án. (Ảnh: Bộ Công an).
Nhà thầu Trung Quốc vi phạm hợp đồng
Tập đoàn Khoa học công nghệ và Thương mại luyện kim Trung Quốc (MCC) trúng thầu dự án này và tháng 7/2007 được ký với TISCO hợp đồng EPC số 01.
Trị giá hợp đồng EPC số 01 là hơn 160 triệu USD, là hợp đồng trọn gói không thay đổi trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng và đã bao gồm các loại thuế được xác định trong hợp đồng, các chi phí cần thiết để thực hiện hợp đồng theo phương thức tổng thầu EPC. Giá chi tiết gồm 3 phần: Chi phí thiết kế và dịch vụ kỹ thuật (phần E) là hơn 3,1 triệu USD; chi phí thiết bị (phần P) là hơn 114 triệu USD; chi phí xây lắp (phần C) là gần 43 triệu USD.
Nội dung hợp đồng EPC số 01 có đoạn, nhà thầu sẽ thực hiện tất cả các công việc của dự án phù hợp với các điều khoản của hợp đồng trong vòng 30 tháng; Tổng thầu EPC lựa chọn nhà thầu phụ qua đấu thầu hoặc chỉ định thầu;…
Ngày 24/8/2007, MCC đã được TISCO cho tạm ứng hơn 35 triệu USD. Tuy nhiên, sau hơn 11 tháng kể từ khi hợp đồng này có hiệu lực thực hiện, MCC chưa lựa chọn và ký hợp đồng với nhà thầu phụ; chưa hoàn thiện thiết kế chi tiết các hạng mục, không đặt hàng chế tạo máy móc, không triển khai thi công các hạng mục của gói thầu, rút hết người về nước và nhiều lần có văn bản đề nghị kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng, tăng giá hợp đồng thêm hơn 138 triệu USD (bao gồm chi phí xây lắp, thiết bị, thiết kế, dịch vụ kỹ thuật và biến động tỷ giá) với lý do giá cả thị trường thế giới biến động tăng giá bất thường không có căn cứ, không đúng nguyên tắc hợp đồng theo hình thức trọn gói đã ký (hợp đồng EPC).
TISCO thuê hãng luật Kelvin China Parnership tư vấn và cho kết quả: “MCC không thể đơn phương tăng giá hợp đồng do giá trị hợp đồng là trọn gói cố định… Nếu MCC bỏ dở công trình, TISCO có thể chấm dứt hợp đồng và yêu cầu bồi thường cho các tổn thất, thiệt hại”.
Video đang HOT
Tuy nhiên, TISCO vẫn xin ý kiến để được điều chỉnh giá thiết bị (phần P) và chi phí khác (phần E) với dự án. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ rõ không có căn cứ điều chỉnh và TISCO cần áp dụng điều khoản phạt và hủy đấu thầu, chọn lại nhà thầu nhằm đảm bảo tiến độ.
Sau đó, TISCO và VNS tiếp tục đề nghị cho phép điều chỉnh chi phí phần C (xây lắp) trong hợp đồng EPC. TISCO tham gia ký hợp đồng thầu phụ theo hình thức đơn giá điều chỉnh, TISCO nghiệm thu, thanh quyết toán theo thực tế thi công và trực tiếp thanh toán cho nhà thầu phụ.
Được sự đồng ý của VNS, ngày 31/8/2009, Trần Trọng Khâm, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc TISCO đã ký phụ lục lần thứ 4 của hợp đồng EPC số 01 với MCC, có nội dung: “TISCO mà MCC đồng ý rằng phụ lục này điều chỉnh và quy định thay đổi về giá và chi phí của phần xây dựng và lắp đặt (phần C); TISCO giới thiệu Tổng Công ty Xây dựng công nghiệp Việt Nam (VINAINCON) là nhà thầu phụ thực hiện toàn bộ công việc của phần C. Ba bên (TISCO, MCC, VINAINCON) sẽ ký hợp đồng thầu phụ cho phần xây dựng và lắp đặt của hợp đồng EPC…
TISCO tham gia ký hợp đồng thầu phụ và chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi: Quản lý và kiểm soát toàn bộ chi phí của hợp đồng thầu phụ theo quy định; sẽ thanh toán toàn bộ khoản tiền của phần xây dựng và lắp đặt. Giá trị tạm tính để ký hợp đồng thầu phụ phần C là gần 43 triệu USD. Chi phí phần C sẽ được chủ đầu tư thanh toán trực tiếp cho nhà thầu phụ. Nếu chi phí vượt quá gần 43 triệu USD thì phần tăng thêm sẽ do chủ đầu tư chịu trách nhiệm thanh toán…”.
Ngày 30/9/2009, Trần Trọng Khâm, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc TISCO cùng Tổng Giám đốc VINAINCON Hoàng Chí Cường và đại diện MCC đã ký hợp đồng thầu phụ số N0.01EPC-C01, có nội dung: “Hình thức hợp đồng thực hiện phần C theo đơn giá, TISCO chịu trách nhiệm quản lý, kiểm soát và thanh toán toàn bộ khoản tiền của phần C…Nếu VINAINCON vi phạm hợp đồng thì VINAINCON phải đảm bảo cho MCC miễn chịu trách nhiệm về bất cứ bồi thường tổn thất nào do vi phạm này gây ra, nếu nguyên nhân chậm tiến độ do VINAINCON gây ra thì VINAINCON phải chịu trách nhiệm cho phần C tuân thủ theo hợp đồng EPC số 01…”.
Theo cơ quan truy tố, việc tách phần C ra khỏi hợp đồng EPC và chọn VINAINCON làm nhà thầu phụ dù không đủ năng lực đã vi phạm Luật Đấu thầu; làm tăng tổng mức đầu tư dự án.
Hiện trường Nhà máy Gang thép Thái Nguyên. (Ảnh: Quân Đỗ)
Cấp thiết bị sai chủng loại, sai xuất xứ…
Cáo trạng cho biết, do VINAINCON không đủ năng lực (về nhân công, thiết bị, tài chính…) để tiếp tục thực hiện hoàn thành các công việc của phần C theo thời hạn và hợp đồng đã ký, nên đã trả lại các phần việc chưa khởi công, thi công cho TISCO.
Vì vậy, TISCO đã phải ký tiếp với 13 hợp đồng phụ với 13 nhà thầu phụ khác để tiếp tục thực hiện phần C nói trên, nhưng đến thời điểm hết hạn hợp đồng (31/5/2011) vẫn không hoàn thành được công việc. Mặc dù phần C của hợp đồng EPC số 01 dở dang, chưa hoàn thành, nhưng TISCO đã phải thanh toán cho phần C là hơn 877 tỷ đồng (vượt quá giá trị theo hợp đồng EPC số 01: phần C có giá trị gần 43 triệu USD, tương đương hơn 764 tỷ đồng).
Theo cáo trạng, về phần E của hợp đồng EPC số 01, MCC đã cung cấp đủ cho TISCO 1.398 bản vẽ thiết kế, TISCO đã thanh toán gần 3 triệu USD (92,77%).
Đối với phần P của hợp đồng EPC số 01, MCC đã thực hiện nhập khẩu thiết bị và cấp đến công trường khoảng 35.800 tấn thiết bị (trong đó có nhiều loại máy móc thiết bị qua kiểm tra xác định không đúng quy cách chủng loại; sai khác về xuất xứ, tên nhà cung cấp, ký hiệu, thông số kỹ thuật…); còn thiếu 526 tấn, gồm: thiết bị điện, điện điều khiển, tự động hóa và vật liệu chịu lửa (trị giá khoản 16 triệu USD). TISCO đã thanh toàn giá trị phần C là hơn 107 triệu USD (93,68%).
Cáo trạng xác định, tính đến ngày 31/12/2018, TISCO dã chi cho dự án 4.423 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn chủ đầu tư là 1.335 tỷ đồng, còn lại là vốn vay các ngân hàng. TISCO trả lãi cho các ngân hàng từ khi hợp đồng EPC số 01 chậm tiến độ là hơn 830 tỷ đồng.
Đề nghị truy tố 19 bị can trong vụ án Gang thép Thái Nguyên giai đoạn 2
Cơ quan điều tra đề nghị truy tố 19 bị can vụ án Gang thép Thái Nguyên giai đoạn 2 gây thiệt hại 830 tỷ đồng.
Cơ quan CSĐT Bộ Công an vừa ban hành kết luận điều tra, chuyển hồ sơ tới Viện KSND tối cao đề nghị truy tố 19 bị can trong vụ án "Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí và thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng" xảy ra tại dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 - Công ty Gang thép Thái Nguyên (TISCO) và một số đơn vị có liên quan.
Các bị can bị truy tố gồm: Mai Văn Tinh - cựu Chủ tịch HĐQT Tổng Công ty Thép Việt Nam (VNS); Nguyễn Trọng Khôi - nguyên Phó Tổng GĐ VNS; Đậu Văn Hùng - nguyên Tổng Giám đốc VNS; Trần Trọng Mừng, nguyên Tổng Giám đốc TISCO; Trần Văn Khâm, nguyên Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc TISCO; Ngô Sỹ Hán - cựu Phó Tổng Giám đốc, Trưởng Ban Quản lý dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 - TISCO...
Các bị can bị truy tố.
Theo kết luận điều tra, dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 - Công ty Gang thép Thái Nguyên do Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên làm chủ đầu tư, cấp quyết định đầu tư là HĐQT VNS.
Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương), Chính phủ chỉ là cấp có thẩm quyền cho chủ trương đầu tư dự án, không có thẩm quyền quyết định đầu tư cũng như tổ chức đấu thầu, ký hợp đồng, thanh quyết toán dự án.
Sau khi Thủ tướng đồng ý chủ trương đầu tư dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 Công ty Gang thép Thái Nguyên (các nguồn vốn huy động gồm vốn tự có của chủ đầu tư, vốn vay ngân hàng và vay tín dụng ưu đãi của Nhà nước), ông Nguyễn Kim Sơn, Chủ tịch HĐQT VNS đã ký quyết định phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi dự án với tổng mức đầu tư là hơn 3.800 tỷ đồng.
Đơn vị trúng thầu là Tập đoàn Khoa học Công nghệ và Thương mại luyện kim Trung Quốc (MCC). Tháng 7/2007, ông Trần Trọng Mừng, Tổng Giám đốc TISCO đã ký hợp đồng số 01 EPC với đại diện của MCC. Giá trị hợp đồng hơn 160 triệu USD, là giá trọn gói không thay đổi trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng.
Từ tháng 8/2008, sau hơn 11 tháng khởi công xây dựng nhưng MCC chưa hoàn thành thiết kế chi tiết các hạng mục, chưa lựa chọn và ký được hợp đồng với nhà thầu phụ, chưa triển khai thi công bất kỳ hạng mục nào của gói thầu nhưng lại có nhiều văn bản gửi TISCO đề nghị kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng và đề nghị điều chỉnh giá hợp đồng EPC với tổng chi phí tăng thêm là hơn 138 triệu USD không có cơ sở.
Tuy nhiên bị can Trần Trọng Mừng đã ký văn ban gửi Bộ Công Thương và VNS đề nghị "cho giải quyết đặc cách" phạm vi được điều chỉnh về giá thiết bị và các chi phí khác đối với dự án.
Bị can Nguyễn Trọng Khôi, Phó Tổng Giám đốc VNS đã ký văn bản gửi Bộ Công Thương, trong đó có nội dung: "Để cùng chia sẻ khó khăn với MCC, chủ đầu tư sẽ đề nghị lên các cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết điều chỉnh đối với phần xây dựng (phần C) của hợp đồng...".
Theo kết luận điều tra, với chức trách nhiệm vụ được giao, các bị can Trần Trọng Mừng, Mai Văn Tinh, Đậu Văn Hùng và đồng phạm đã không chỉ đạo áp dụng điều khoản để dừng hợp đồng, báo cáo người có thẩm quyền xem xét hủy đấu thầu, thu hồi tiền tạm ứng mà quyết tâm bằng mọi biện pháp tiếp tục thực hiện dự án.
Các bị can là người có chức vụ, quyền hạn nhận thức rõ theo quy định pháp luật thì hợp đồng EPC số 01 không được phép điều chỉnh trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng. Theo quy định MCC phải chịu trách nhiệm lựa chọn, ký hợp đồng, trực tiếp thanh toán cho nhà thầu phụ thực hiện phần C hợp đồng nhưng các bị can đã chỉ đạo, tổ chức đàm phán với MCC tách phần "C" ra khỏi hợp đồng để TISCO tổ chức thực hiện và chịu mọi rủi ro.
Các bị can còn chỉ đạo đơn vị có chức năng tại VNS, TISCO tham mưu đề xuất, ký các văn bản báo cáo đề nghị Bộ Công Thương báo cáo Thủ tướng cho điều chỉnh chi phí phần C, điều chỉnh hợp đồng EPC số 01.
"Việc làm trên đã làm thay đổi bản chất, phá vỡ nguyên tắc quản lý hợp đồng EPC, tạo điều kiện cho MCC có lý do chối bỏ trách nhiệm thực hiện hợp đồng EPC số 01. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến TISCO không kiểm soát được chi phí đầu tư vào dự án, không ràng buộc trách nhiệm của nhà thầu phụ về tiến độ, giá trị hợp đồng làm dự án phải dừng thi công gây thất thoát lãng phí tài sản cho Nhà nước", Cơ quan điều tra đánh giá.
Cơ quan điều tra xác định, tính đến 31/12/2018, TISCO đã đầu tư cho dự án hơn 4.400 tỷ đồng, trong đó vốn vay VDB Bắc Kạn - Thái Nguyên là 1.400 tỷ đồng, vay Vietinbank Hà Nội 1.600 tỷ đồng.
Đến nay dự án đã quá thời hạn được phê duyệt gần 10 năm nhưng vẫn chưa hoàn thành; số tiền hơn 830 tỷ đồng mà TISCO đã trả các ngân hàng từ khi dự án chậm tiến độ, dừng thi công đến thời điểm vụ án bị khởi tố là hậu quả thiệt hại của vụ án.
Xét xử nguyên Giám đốc Sở Y tế Long An Lê Thanh Liêm Trong hai ngày 29-30/10, TAND tỉnh Long An đưa ra xét xử vụ án "Cố ý làm trái quy định Nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng" đối với nguyên Giám đốc Sở Y tế Long An Lê Thanh Liêm. Hội đồng xét xử (HĐXX) do Thẩm phán Dương Văn Thành làm chủ tọa. Nội dung vụ án thể hiện, năm 2014, bị...