Việt Nam và áp lực cải cách
Đề cập đến những lợi ích lớn nhất mà Việt Nam, khi hội nhập kinh tế, có thể nhận được từ việc gia nhập TPP và các FTA, hầu hết các chuyên gia trong và ngoài nước đều đồng tình rằng một trong số đó là áp lực cải cách một cách toàn diện.
Ảnh minh họa từ www.favorangels.com
Tham gia vào TPP và các FTA, Việt Nam sẽ buộc phải tuân thủ khá nhiều quy định nghiêm ngặt liên quan đến những vấn đề cốt lõi như luật pháp, thể chế, thuế quan, các tiêu chuẩn lao động. Tất cả những điều này sẽ tạo ra những thay đổi về tận gốc rễ nền kinh tế và bộ máy điều hành.
Nếu như tất cả đều nhận thức được lợi ích về tăng cường xuất khẩu hay thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) từ các hiệp định thương mại thì số có thể nhận thức được cụ thể những lợi ích về cải cách thể chế và luật pháp lại tương đối ít. Vì thế, điều quan trọng nhất ở thời điểm hiện tại với Việt Nam là vạch ra được một lộ trình cụ thể để tối ưu hóa các lợi ích nhận được từ áp lực cải cách toàn diện này.
Áp lực cải cách mang tính toàn diện lớn nhất
Có thể nói rằng, với việc gia nhập các hiệp định thương mại lớn và quan trọng như TPP hay các FTA, Việt Nam đang phải đối diện với áp lực cải cách mang tính toàn diện với quy mô lớn nhất kể từ khi mở cửa nền kinh tế giữa những năm 1980 đến nay. Nếu như những lần cải cách trước đó, điển hình như thời điểm mở cửa, Việt Nam chủ yếu vẫn chỉ cải cách một cách tự phát và thiếu hệ thống thì ở thời điểm hiện tại, các quy định chặt chẽ khi gia nhập TPP và ký kết các FTA đang đặt ra trước mặt Việt Nam một yêu cầu cải cách toàn diện và sâu rộng nhất về mọi mặt, theo một quy trình và yêu cầu khắt khe nhất.
Hầu như mọi lĩnh vực quan trọng nhất đối với nền kinh tế Việt Nam đều nằm trong diện phải cải cách. Từ luật pháp như thuế doanh nghiệp, thuế hải quan, luật lao động; cho tới cách thức điều hành nền kinh tế vốn có như yêu cầu đối xử bình đẳng giữa các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) với các doanh nghiệp tư nhân, yêu cầu công khai minh bạch quá trình điều hành và quản trị đất nước của chính phủ; cùng với đó là những yêu cầu về bảo vệ môi trường và kiểm soát chất thải.
Video đang HOT
Tất cả những yêu cầu cải cách này đang được dự báo sẽ tạo ra những thay đổi tận gốc rễ nền kinh tế và cách thức điều hành của Việt Nam từ trước đến nay. Nói cách khác, những tác động mà nó gây ra sẽ không thể dễ dàng đo đếm được.
Chẳng hạn như trong vấn đề DNNN, sau khi các quy định về đối xử công bằng của chính phủ với các doanh nghiệp của TPP đi vào hoạt động, chính phủ sẽ không còn có thể tiếp tục cung cấp những ưu đãi về vốn, thuế hay bảo lãnh nợ cho các DNNN nữa. Điều này dự báo tạo ra những thay đổi cực lớn đối với nền kinh tế Việt Nam, khi mô hình phát triển kinh tế sẽ chuyển dịch mạnh từ việc chú trọng vào vai trò của khối quốc doanh sang các bộ phận khác của nền kinh tế, như khối tư nhân. Thậm chí, sẽ có không ít các DNNN rơi vào cảnh khó khăn và ngưng hoạt động sau khi bầu sữa từ chính phủ bị cắt, gây ra những biến động lớn với nền kinh tế.
Những yêu cầu về cải cách hệ thống thuế quan cũng như luật lao động và bảo vệ môi trường cũng được xem là những cải cách động chạm đến những vấn đề cốt lõi của nền kinh tế. Các quy định của TPP và các FTA đang buộc Việt Nam phải chuẩn hóa các lĩnh vực luật pháp này theo tiêu chuẩn quốc tế. Chẳng hạn hệ thống thuế quan, nếu cải cách và minh bạch hóa hệ thống thuế thì trong ngắn hạn thu ngân sách nhà nước từ việc đánh thuế có thể sẽ bị ảnh hưởng, do yêu cầu công bằng về thuế giữa khối quốc doanh với khối tư nhân, giữa khối nội địa với khối FDI.
Điều tương tự sẽ diễn ra trong lĩnh vực luật lao động và bảo vệ môi trường. Nếu cải cách theo đúng những tiêu chuẩn trong TPP về lao động, ưu thế về nhân công giá rẻ của Việt Nam sẽ phần nào bị ảnh hưởng do các yêu cầu về tiền lương và giờ lao động, điều này sẽ buộc các nhà điều hành kinh tế phải tính toán lại những kế hoạch phát triển định xây dựng dựa trên ưu thế nhân công giá rẻ.
Luật bảo vệ môi trường cũng sẽ khiến hàng loạt những công nghệ cũ, lạc hậu vốn vẫn đang được vận hành trong nền kinh tế bị loại bỏ. Dĩ nhiên về lâu dài đây là điều có lợi, nhưng trong ngắn hạn thì tác động của nó với nền kinh tế là không thể xem thường.
Cần chủ động đi trước trong cải cách
Khi nhắc đến các lợi ích mà Việt Nam nhận được từ TPP và các FTA khi hội nhập kinh tế, hầu hết các chuyên gia đều nhận định áp lực cải cách từ các hiệp định thương mại này sẽ buộc Việt Nam phải cải cách các lĩnh vực đang bế tắc. Điều này có nghĩa là Việt Nam đang muốn dựa vào sức ép đến từ các hiệp định bên ngoài này để phá vỡ sự bế tắc trong hàng loạt các lĩnh vực, mà lẽ ra phải được trong nước đẩy mạnh và hoàn tất từ trước đó.
Việc dựa dẫm vào yêu cầu và các quy định của TPP và các FTA để cải cách thể chế và các lĩnh vực của nền kinh tế trong nước là một việc ẩn chứa rất nhiều rủi ro. Vì số lượng các lĩnh vực cần cải cách sâu rộng của Việt Nam thì quá nhiều, hầu hết đều là các lĩnh vực rất quan trọng, nếu như không có một lộ trình cải cách thật bài bản và hệ thống thì mọi việc sẽ rất dễ vượt ra khỏi tầm kiểm soát khi các áp lực cải cách đến cùng một thời điểm.
Chẳng hạn như vấn đề luật pháp, Việt Nam sẽ phải thay đổi và điều chỉnh hàng loạt bộ luật để phù hợp với những quy định của TPP, trong khi để thay đổi và điều chỉnh một bộ luật cũng đã tốn nhiều thời gian, thường lên tới hàng năm. Nếu như không chuẩn bị trước và tiến hành lần lượt, chất lượng của những thay đổi này sẽ rất dễ rơi vào tình trạng kém hiệu quả.
Tương tự là hàng loạt các vấn đề kinh tế vĩ mô như cổ phần hóa các DNNN. Sau khi TPP đi vào thực hiện, hàng loạt tập đoàn và DNNN sẽ bị cắt các khoản hỗ trợ từ phía Nhà nước và hoạt động một cách công bằng so với doanh nghiệp tư nhân. Nếu như không thể cổ phần hóa nhanh chóng, sẽ có hàng loạt DNNN phải giải thể hay ngưng hoạt động do nợ nần chồng chất và hiệu quả hoạt động kém. Điều này có thể khiến nền kinh tế gặp một cú sốc trong ngắn hạn, do hầu hết các DNNN có quy mô khá lớn.
Việt Nam, do đó, cần một lộ trình cải cách và cổ phần hóa các DNNN trước khi TPP đi vào thực hiện. Nhưng thực tế là hiệu quả thực hiện đến thời điểm hiện tại vẫn còn quá thấp, khi mà tiến độ cổ phần hóa các DNNN trong năm 2015 chỉ đạt 173 DN trong khi chỉ tiêu cả năm là 432, đạt chưa đến 40% yêu cầu đề ra.
Nói tóm lại, Việt Nam có quá nhiều việc cần làm trong vấn đề cải cách trong khi chỉ còn hơn 18 tháng nữa là TPP đi vào hoạt động, chưa kể các FTA đã ký trong năm 2015 có thể sẽ còn sớm hơn. Cho nên, lúc này Việt Nam cần một lộ trình cụ thể để giải quyết lần lượt các lĩnh vực cải cách quan trọng nhất, chứ không thể chờ đợi vào những áp lực cải cách sau khi TPP đi vào hoạt động. Vì làm như vậy cũng đồng nghĩa với lãng phí thời gian và cơ hội rất lớn. Cỗ máy cần phải được sửa chữa và bảo dưỡng trước khi cuộc đua bắt đầu, chứ không phải là chờ đến khi cuộc đua bắt đầu mới đem ra sửa chữa.
Áp lực cải cách toàn diện của TPP và các FTA vì thế cần được hiểu theo nghĩa báo trước, chứ không phải là chờ đến khi nước đến chân mới nhảy. Chỉ một cỗ máy vận hành trơn tru và được bảo dưỡng kỹ lưỡng mới có thể tăng tốc và bứt phá trong cuộc đua được, còn những cỗ máy đến khi cuộc đua bắt đầu mới đem ra sửa chữa thì việc về chót là điều không có gì khó hiểu.
Theo Một thế giới
AEC, FTA Việt Nam EU, TPP: Đừng tưởng... 'ngon ăn'
Dù AEC hay FTA VN - EU, TPP... khi đi vào thực thi thì những người làm trong lĩnh vực dệt may đều nhìn thấy rất rõ những cơ hội từ việc thị trường mở rộng. Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu rõ, AEC, FTA VN - EU yêu cầu sản phẩm có xuất xứ từ vải thì TPP lại yêu cầu xuất xứ từ sợi.
TPP là một cơ hội mới rất lớn cho ngành dệt may nhưng phải chờ tới... sau năm 2017
Trên thực tế, VN là nước nhập khẩu rất nhiều nguyên liệu may mặc, đặc biệt là từ Trung Quốc. Hầu hết các nước châu Á cũng đều nhập nguyên liệu từ Trung Quốc. Và để chặn điều này, TPP yêu cầu nguyên tắc "từ sợi trở đi".
Ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch HĐQT Tổng Cty cổ phần May Hưng Yên (Hugaco), một DN sở hữu tới hơn 10 ngàn công nhân chuyên sản xuất các mặt hàng thời trang XK và XK tới gần 70% sang thị trường Hoa Kỳ. Vì vậy, với ông Dương, TPP là một cơ hội mới rất lớn nhưng phải chờ tới... sau năm 2017. Tuy nhiên, hiểu rất rõ những quy định trong TPP nên Hugaco đã chủ động tăng cường liên kết chặt chẽ với các DN may mặc trong Tập đoàn Dệt May Việt Nam và một số DN may mặc khác để tạo thành một chuỗi cung ứng bên cạnh việc cung ứng nội bộ. "Với Hugaco, chúng tôi luôn lượng sức mình và thực hiện phương châm nỗ lực ở mức cao nhất để gia tăng kim ngạch XK bằng việc dựa vào vai "những người khổng lồ" là những DN cung cấp nguyên phụ liệu lớn tại VN", ông Dương nói.
Thực tế là trong mười năm qua, các DN ngành dệt may chủ yếu chú trọng đầu tư ngành may còn với ngành dệt nhuộm lại khá cầm chừng. Để tận dụng cơ hội ưu đãi xuất xứ từ TPP, các DN lớn của VN chẳng hạn như TCty Phong Phú đã đặt mục tiêu sẽ nâng cao tỷ lệ nội địa hóa với nhiều sản phẩm chủ chốt. Cụ thể, với sản phẩm sợi, nâng từ 23.000 tấn/năm lên 35.000 tấn/năm; vải denim từ 14 triệu mét nâng lên 35 triệu mét; vải dệt kim hiện nay là 2.500 tấn nâng 12.000 tấn/năm trong năm 2020. Tuy nhiên, để thực hiện các dự án này cũng không hề đơn giản chút nào do vướng nhiều vấn đề như: nguồn nhân lực, công nghệ xử lý nước thải như thế nào...
Một câu chuyện khác cũng rất lo ngại là chuyện năng suất lao động. Theo thống kê của tổ chức lao động quốc tế ILO thì năng suất lao động bình quân chung tại VN rất thấp nếu so với các nước trong khu vực, chỉ bằng 30% của Malaisia, 40% của Thái Lan. Ông Nguyễn Xuân Dương cho biết, ở ngành dệt may VN, năng suất lao động bình quân (tính trên giá gia công) tuy có cao hơn so với bình quân chung của cả nước nhưng cũng mới chỉ đạt 1,5 USD/ giờ (bằng 50% năng suất bình quân ngành may Thái Lan và Indonesia) . Người lao động làm ra 312 USD/ tháng, nếu trừ các chi phí trong sản xuất, quản lý, bảo hiểm XH, kinh phí công đoàn, phí lưu thông...thì chỉ còn khoảng 52% để trả lương cho người lao động, tương đương khoảng 3,4 triệu đồng/ tháng
Chuyên gia Phạm Minh Đức thuộc Ngân hàng Thế giới cho rằng, cấu trúc ngành dệt may đang... có vấn đề, ví dụ năng suất lao động của ngành dệt may đang ở mức thấp sẽ đẩy giá thành lên cao, đơn cử như cùng sản phẩm áo Polo năng suất trung bình của công nhân VN là 12 áo /người/ngày, trong khi của Trung Quốc là 25 áo/người/ngày).
Nói như một chuyên gia của Vitas, bối cảnh trước mắt, có lẽ các DN VN buộc phải chấp nhận phương án chia sẻ lợi ích từ "miếng bánh" xuất xứ nguyên liệu của TPP với các DN FDI, còn về dài hạn, các DN VN không thể đứng nhìn. "Các DN trong nước cần có chiến lược phát triển dài hạn để chủ động đầu tư vào sản xuất nguyên phụ liệu. Cụ thể, với quy tắc xuất xứ từ TPP, các DN VN phải tính đến chiến lược dài hạn 30 năm tới để tập trung sản xuất nguyên liệu", vị chuyên gia này nói.
Theo Diễn đàn doanh nghiệp
3 kịch bản triển vọng kinh tế của Việt Nam Trong 'Dự báo tình hình kinh tế - xã hội phục vụ lập kế hoạch trung hạn trong bối cảnh hội nhập quốc tế' được đưa ra ngày 7/12, các chuyên gia của Bộ KH&ĐT nhận định, sang năm 2016, nền kinh tế Việt Nam sẽ thoát khỏi giai đoạn suy giảm và bắt đầu bước vào chu kỳ phục hồi mới. Tăng...